I/ THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
1. Chủ trương, chính sách và pháp luật về trợ giúp pháp lý
Trợ giúp pháp lý (TGPL) là một chính sách nhân văn nhằm bảo đảm quyền con người, quyền công dân, quyền tiếp cận công lý của nhóm người “dễ bị tổn thương”, giúp người nghèo, người yếu thế được bảo vệ kịp thời và bình đẳng trước pháp luật. Khác với một số quốc gia trên thế giới có thu phí một phần hoặc giảm phí TGPL
[1], Việt Nam có chính sách TGPL miễn phí hoàn toàn cho những người thuộc diện TGPL trong tất cả các lĩnh vực pháp luật (dân sự, hình sự, hành chính), trừ lĩnh vực kinh doanh thương mại.
Trải qua gần 30 năm hình thành và phát triển, TGPL đã khẳng định vị trí, vai trò trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội. Việt Nam khẳng định: “
TGPL là trách nhiệm của Nhà nước. Nhà nước có chính sách để bảo đảm quyền được TGPL phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội”
[2]. Nhà nước thực hiện trách nhiệm này thông qua việc xây dựng các tổ chức thực hiện TGPL, nòng cốt là Trung tâm TGPL nhà nước, đồng thời huy động các nguồn lực xã hội tham gia công tác TGPL. Nguồn tài chính cho công tác TGPL được cung cấp từ nguồn ngân sách nhà nước (là chủ yếu); có sự đóng góp, tài trợ của tổ chức, cá nhân trong nước, ngoài nước và các nguồn hợp pháp khác.
Hiện nay,
hệ thống pháp luật về TGPL tương đối đầy đủ, gồm 21 văn bản quy phạm pháp luật đang có hiệu lực (01 Luật, 01 Nghị định, 13 Thông tư và 06 Thông tư liên tịch). Luật TGPL đầu tiên được Quốc hội ban hành vào năm 2006 (năm 2017, Quốc hội ban hành Luật TGPL mới, thay thế Luật TGPL năm 2006). Các văn bản này điều chỉnh toàn diện các vấn đề TGPL, như: nguyên tắc hoạt động, mô hình tổ chức quản lý TGPL, người được TGPL, tổ chức thực hiện TGPL, người thực hiện TGPL, các hoạt động nghiệp vụ TGPL, chế độ chính sách, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong công tác TGPL...
Ngoài ra, Việt Nam đã tham gia ký kết nhiều điều ước quốc tế đa phương và song phương có liên quan đến lĩnh vực TGPL, ví dụ Công ước quyền trẻ em, Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xủa chống lại phụ nữ, Công ước người khuyết tật, Công ước về trấn áp buôn bán người và bóc lột mại dâm và nhiều Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự với các nước… Các cam kết trong điều ước quốc tế là cơ sở pháp lý quan trọng để nội luật hóa pháp luật Việt Nam hoặc được ưu tiên áp dụng trực tiếp trong trường hợp các văn bản luật và dưới luật trong nước chưa có quy định.
2. Người thuộc diện được TGPL
Việt Nam quy định người được TGPL là nhóm người yếu thế trong xã hội, cụ thể là: người thuộc hộ nghèo, trẻ em; người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi; người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo…
Đồng thời, Luật TGPL 2017 Việt Nam còn mở rộng thêm các nhóm người có khó khăn về tài chính, bao gồm: người nhiễm chất độc da cam; người cao tuổi; người khuyết tật; người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là bị hại trong vụ án hình sự; nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình; nạn nhân của hành vi mua bán; người nhiễm HIV.
Do đặc thù của Việt Nam là đất nước trải qua cuộc chiến tranh giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước, vì vây, để tri ân những người có công với cách mạng, pháp luật Việt Nam quy định người có công với cách mạng thuộc diện được TGPL. Bên cạnh đó, thân nhân của liệt sĩ và người có công nuôi dưỡng khi liệt sĩ còn nhỏ có khó khăn về tài chính cũng thuộc diện được TGPL.
Mới đây, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật Tư pháp người chưa thành niên và Luật Phòng chống mua bán người, theo đó, kể từ ngày 01/7/2025, nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân của hành vi mua bán người và người dưới 18 tuổi đi cùng theo quy định của Luật Phòng, chống mua bán người năm 2024; và kể từ ngày 01/01/2026, người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội, bị hại, người làm chứng, người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng, phạm nhân theo quy định của Luật Tư pháp người chưa thành niên cũng thuộc diện được TGPL.
Như vậy, có thể thấy, theo quy định của pháp luật hiện hành thì người thuộc diện được TGPL ở Việt Nam khá rộng.
3. Hệ thống tổ chức và nhân lực thực hiện TGPL
Theo quy định của Luật TGPL, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về TGPL và giao cho Bộ Tư pháp là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về TGPL trong phạm vi cả nước. Ở địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về TGPL trong phạm vi địa phương. Như vậy, mô hình quản lý nhà nước về TGPL được thực hiện ở cả Trung ương và địa phương.
Tổ chức thực hiện TGPL gồm: Trung tâm TGPL nhà nước và các tổ chức tham gia TGPL (gồm tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật).
- Trung tâm TGPL nhà nước là đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, có tư cách pháp nhân, con dấu và tài khoản riêng. Tính đến hết năm 2024, toàn quốc có 63 Trung tâm TGPL nhà nước ở 63 tỉnh, thành phố, với 1.252 người làm việc (trong đó 712 trợ giúp viên pháp lý); 97 Chi nhánh của Trung tâm TGPL nhà nước.
- Bên cạnh đó, hiện có 177 tổ chức đăng ký tham gia TGPL và 20 tổ chức ký hợp đồng thực hiện TGPL với Sở Tư pháp.
4. Một số kết quả đạt được
4.1. Kết quả thực hiện vụ việc TGPL
Số lượng vụ việc cung cấp cho người dân thuộc diện được TGPL ngày càng tăng, chất lượng ngày càng cao, góp phần đáng kể trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của những người yếu thế trong xã hội. Từ 1997 – nay, các tổ chức thực hiện TGPL trên toàn quốc đã thực hiện được hơn 2,3 triệu vụ việc cho người thuộc diện được TGPL. Số lượng vụ việc TGPL nói chung và vụ việc TGPL tham gia tố tụng nói riêng liên tục tăng, năm sau cao hơn năm trước. Riêng năm 2024, các Trung tâm đã thực hiện 60.046 vụ việc, trong đó thụ lý mới 40.003 vụ việc (chủ yếu là vụ việc TGPL tham gia tố tụng với 33.416 vụ, chiếm 83,53% số vụ việc thụ lý).
Chất lượng dịch vụ TGPL ngày càng được nâng cao vì các lý do sau: (i) pháp luật về TGPL quy định chuẩn hóa tiêu chuẩn của trợ giúp viên pháp lý tương đương với luật sư; năng lực của đội ngũ trợ giúp viên pháp lý đã dần được nâng cao và trở thành đội ngũ nòng cốt cung cấp dịch vụ TGPL cho người thuộc diện được TGPL; (ii) quy định tiêu chuẩn tham gia thực hiện TGPL đối với tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật bảo đảm việc tham gia thực chất và có chất lượng; (iii) Nhà nước có cơ chế quản lý, đánh giá chất lượng vụ việc TGPL.
4.2. Việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong TGPL
Bắt nhịp cùng xu thế tất yếu của cách mạng công nghiệp lần thứ 4, thời gian gần đây, Ngành Tư pháp đã tăng cường hiện đại hóa, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong công tác TGPL. Hệ thống công nghệ thông tin "Quản lý, tổ chức và hoạt động TGPL" được sử dụng để số hóa thông tin, lưu trữ thông tin của 2.627 nhân sự, 261 tổ chức với trên 24.000 vụ việc TGPL, trên 190.000 hồ sơ vụ việc TGPL cùng hơn 2.300 tài khoản đăng nhập. Các Trung tâm TGPL đang thường xuyên cập nhật thông tin và chia sẻ dữ liệu về tổ chức, vụ việc TGPL, kết nối với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và người thực hiện TGPL thực hiện các thủ tục TGPL trên môi trường mạng, trong đó có việc tham gia các phiên tòa trực truyến. Hiện tại, Bộ Tư pháp đang nghiên cứu xây dựng, triển khai Dự án đầu tư công "Hệ thống thông tin TGPL", xây dựng “Đề án nâng cao vai trò hiện đại hóa và phát triển TGPL giai đoạn 2025-2030 tầm nhìn đến năm 2045”.
Công tác truyền thông về TGPL cũng đã và đang được chú trọng đẩy mạnh thực hiện với nhiều hình thức đa dạng, kết hợp hài hòa giữa phương thức truyền thống với phương thức hiện đại trên cơ sở ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin.
5. Một số khó khăn, thách thức
a) Thể chế chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn hiện nay. Vấn đề phân cấp, phân quyền trong quản lý TGPL chưa mạnh mẽ. Năng lực quản lý nhà nước về TGPL ở các địa phương chưa đồng đều.
b) Nhận thức và sự quan tâm của một số cơ quan, tổ chức và người dân về công tác TGPL chưa đầy đủ. Vẫn còn tình trạng thông tin, phối hợp chưa kịp thời, chưa hiệu quả. Thêm vào đó, nhiều trường hợp vì những lý do khác nhau như tâm lý e ngại, thói quen, phong tục, điều kiện sức khỏe, địa lý… nên không yêu cầu hỗ trợ và TGPL kịp thời.
c) Nguồn nhân lực thực hiện TGPL chưa tương xứng với nhu cầu TGPL trong giai đoạn mới kể cả về số lượng cũng như chất lượng. Kinh nghiệm làm việc với các đối tượng đặc thù như trẻ em, phụ nữ, người cao tuổi, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số, người nước ngoài…của một số luật sư, trợ giúp viên pháp lý chưa đáp ứng yêu cầu.
d) Kinh phí, cơ sở vật chất, trang thiết bị, việc ứng dụng công nghệ thông tin chưa triển khai đồng bộ, thực chất.
e) Việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực TGPL còn hạn chế, thiếu diễn đàn quốc tế đa phương và song phương về TGPL để trao đổi, chia sẻ kỹ năng, kinh nghiệm hợp tác chuyên sâu trong lĩnh vực này.
II. Định hướng và giải pháp phát triển công tác TGPL của Việt Nam trong thời gian tới
1. Định hướng phát triển công tác TGPL trong thời gian tới
Trong bối cảnh tổ chức chính quyền địa phương hai cấp, sáp nhập tỉnh và Bộ Chính trị ban hành nhiều chủ trương mới
[3], hoạt động trợ giúp pháp lý cần có những nghiên cứu để đáp ứng các yêu cầu phát triển trong bối cảnh mới. Cùng với yêu cầu đổi mới trong xây dựng và thi hành pháp luật, lĩnh vực TGPL cũng phải có sự thay đổi toàn diện, sâu sắc, từ tổ chức quản lý đến hoạt động chuyên môn. Trước hết, thể chế về TGPL cần sớm được sửa đổi theo hướng đẩy mạnh việc phân cấp, phân quyền cho cơ quan quản lý nhà nước về TGPL ở địa phương và tạo cơ chế thuận lợi nhất cho người dân thụ hưởng quyền được TGPL, kịp thời. Mạng lưới tổ chức TGPL cũng cần được tổ chức linh hoạt, tinh gọn, hiệu năng, hiệu quả, phù hợp với mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Nòng cốt là đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý tinh thông, chuyên nghiệp, hiện đại, thực hiện TGPL từ sớm từ xa, giúp người dân phòng ngừa rủi ro pháp lý; thu hút các nguồn lực xã hội tham gia công tác TGPL để bảo đảm đa dạng các nguồn lực, tạo sức mạnh tổng thể, đủ khả năng thực hiện các yêu cầu của công tác TGPL trong thời gian tới.