Những nội dung cơ bản của Luật Hòa giải Nhân dân Trung Quốc và đề xuất hoàn thiện Luật Hòa giải ở cơ sở của Việt Nam

Chế định hòa giải nhân dân của nước Cộng hòa nhân dân Trung Quốc đã tồn tại nhiều thế kỷ, như một phần trong nền văn hóa Trung Quốc. Hòa giải nhân dân có tầm quan trọng đặc biệt và được Trung Quốc coi đây là “viên ngọc”, bởi giúp giải quyết mọi tranh chấp, mâu thuẫn, bất đồng trong quan hệ dân sự của người dân ở khu dân cư, thôn làng hoặc ở đơn vị làm việc. Khi bất đồng, xích mích của người dân phát sinh sẽ được hòa giải viên nhân dân kịp thời hòa giải nhằm ngăn chặn mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh hoặc không để tranh chấp trở nên trầm trọng hơn.

Luật Hòa giải Nhân dân của nước Cộng hòa nhân dân Trung Quốc được ban hành ngày 30/10/2010 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2011). Nội dung của Luật Hòa giải nhân dân Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng so với Luật Hòa giải ở cơ sở của Việt Nam được ban hành năm 2013. Đồng thời cũng có một số điểm khác biệt, phù hợp với đặc điểm riêng về văn hóa, dân cư, điều kiện kinh tế - xã hội, mức độ phát triển của mỗi quốc gia.

          Những nội dung cơ bản của Luật Hòa giải nhân dân Trung Quốc
        
  Luật Hòa giải nhân dân Trung Quốc bắt nguồn từ nền văn hóa truyền thống của Trung Quốc, hòa giải nhân dân được thực hiện bởi các hòa giải viên ở cấp cơ sở hoạt động tại các Ủy ban hòa giải nhân dân. Ủy ban hòa giải nhân dân là những tổ chức quần chúng (tự quản, chịu sự giám sát của nhân dân) được thành lập hợp pháp, mỗi Ủy ban có tối thiểu 03 thành viên và tối đa 09 thành viên, trong đó có các thành viên nữ và ở khu vực dân cư đa sắc tộc thì Ủy ban có các thành viên là dân tộc thiểu số. Ủy ban hòa giải nhân dân được thiết lập ở các thôn. Ngoài ra, các tổ chức kinh tế, đơn vị việc làm, học viện công, căn cứ vào nhu cầu thực tế có quyền thiết lập Ủy ban hòa giải; nếu cần thiết thì các làng, xã, các tổ chức xã hội và tổ chức khác cũng có thể thiết lập các Ủy ban hòa giải nhân dân để hòa giải mâu thuẫn giữa các bên và hoạt động theo Luật Hòa giải nhân dân Trung Quốc.

Cơ quan hành chính tư pháp cấp xã có trách nhiệm thu thập số liệu thống kê về việc thiết lập các Ủy ban hòa giải nhân dân trong khu vực hành chính của mình và báo cáo cho các Tòa án nhân dân địa phương về thành phần trong các Ủy ban hòa giải nhân dân, các thành viên và bất kỳ sự thay đổi nào trong Ủy ban. Cơ quan hành chính tư pháp địa phương ở cấp xã chịu trách nhiệm hướng dẫn công tác hòa giải nhân dân trong phạm vi khu vực quản lý hành chính của mình. Các tòa án nhân dân địa phương có trách nhiệm cung cấp các hướng dẫn về hoạt động hòa giải cho các Ủy ban hòa giải nhân dân. 

          Việc hòa giải được tiến hành dựa trên yêu cầu của các bên tranh chấp, mâu thuẫn, hoạt động hòa giải sẽ không được tiến hành nếu một bên từ chối hòa giải. Ngoài ra, Tòa án nhân dân địa phương hay tổ chức an ninh công cộng, trước khi thụ lý vụ việc xét thấy mâu thuẫn có thể giải quyết được bằng hòa giải thì có trách nhiệm khuyến cáo các bên có thể yêu cầu một Ủy ban hòa giải nhân dân tiến hành hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp của họ. Một hay nhiều hòa giải viên tham gia hòa giải do Ủy ban hòa giải nhân dân chỉ định hoặc các bên yêu cầu. Trong quá trình hòa giải, hòa giải viên nhân dân có thể áp dụng nhiều biện pháp khác nhau để hòa giải, lắng nghe các lời trình bày của các bên liên quan, đưa ra những lý lẽ pháp luật, quy định và chính sách của nhà nước, kiên nhẫn thuyết phục các bên liên quan, đề xuất các giải pháp trên cơ sở thỏa thuận bình đẳng và sự hiểu biết giữa các bên liên quan; giúp các bên đạt được một thỏa thuận hòa giải trên cơ sở tự do ý chí của họ.

Các hòa giải viên nhân dân phải ghi chép lại quá trình hòa giải và cho các tài liệu hòa giải, các bản ghi chép, báo cáo hòa giải, các bản thỏa thuận hòa giải vào trong hồ sơ (Ủy ban hòa giải nhân dân có trách nhiệm tạo lập các hồ sơ dành cho công tác hòa giải). Thỏa thuận hòa giải có thể được lập bằng văn bản hoặc thỏa thuận miệng (trong trường hợp thỏa thuận miệng thì các hòa giải viên nhân dân sẽ ghi lại nội dung của thỏa thuận). Trong quá trình thực hiện thỏa thuận hoặc phát hiện nội dung của thỏa thuận bất cập thì các bên có thể khởi kiện lên Tòa án nhân dân. Trường hợp thỏa thuận được lập thành văn bản, các bên liên quan có thể cùng nộp đơn lên tòa án nhân dân đề nghị xác nhận tư pháp sau 30 ngày kể từ ngày thỏa thuận hòa giải có hiệu lực (thỏa thuận hòa giải bằng văn bản có hiệu lực từ ngày các bên liên quan ký, đóng dấu hoặc lăn vân tay vào bản thỏa thuận và các hòa giải viên nhân dân ký, đóng dấu của Ủy bản hòa giải nhân dân vào văn bản). Tòa án nhân dân có trách nhiệm kiểm tra bản thỏa thuận và công nhận tính hiệu lực của thỏa thuận đó. Sau khi tòa án nhân dân công nhận tính hiệu lực, nếu một bên liên quan từ chối thực hiện hoặc không thực hiện thỏa thuận, bên tranh chấp còn lại có thể nộp đơn ra Tòa án nhân dân đề nghị buộc thực hiện thỏa thuận.

Việc hòa giải hoàn toàn miễn phí, các Ủy ban hòa giải nhân dân không được yêu cầu các bên chi trả chi phí cho hoạt động hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp. Chính quyền địa phương có trách nhiệm bảo đảm tài chính thích hợp, cần thiết cho công tác hòa giải nhân dân.

          Đề xuất hoàn thiện Luật Hòa giải ở cơ sở của Việt Nam trong thời gian tới

          Trung Quốc và Việt Nam đều xây dựng, phát triển đất nước theo chính thể xã hội chủ nghĩa, có những đặc điểm tương đồng về truyền thống văn hóa, hòa giải nhân dân của Trung Quốc cũng như hòa giải ở cơ sở của Việt Nam đều tồn tại rất lâu trong lịch sử, từ thời kỳ phong kiến, đến nay hòa giải vẫn là một thiết chế giải quyết tranh chấp hiệu quả và đang được Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để sử dụng trong giải quyết tranh chấp nhằm tiến tới xây dựng chính phủ kiến tạo[1], nhà nước pháp quyền; thiết chế này không chỉ phù hợp với truyền thống văn hóa mà còn đáp ứng nhu cầu của người dân, chuẩn mực xã hội và hệ thống chính trị[2]. Hiện nay, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đang khởi động sửa đổi, bổ sung Luật Hòa giải ở cơ sở, do đó tác giả đề xuất một số giải pháp hoàn thiện Luật Hòa giải ở cơ sở trên việc phân tích, đánh giá các quy định pháp luật trong Luật hòa giải nhân dân Trung Quốc còn giá trị thực tiễn.

          Thứ nhất, cần quy định mở rộng chủ thể được thành lập Tổ hòa giải ở cơ sở theo hướng: “Các đơn vị cấp xã, các tổ chức xã hội và các cơ quan, đơn vị, tổ chức khác có thể thành lập Tổ hòa giải theo quy định của Luật này để hòa giải mâu thuẫn giữa các bên”. 

Hiện nay Luật Hòa giải ở cơ sở chỉ quy định Tổ hòa giải là tổ chức tự quản của nhân dân được thành lập ở cơ sở để hoạt động hòa giải (cơ sở được giải thích là thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố, khu phố, khối phố và cộng đồng dân cư khác). Vì vậy, Tổ hòa giải chỉ hoạt động trong phạm vi thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố… Nhưng thực tế các mâu thuẫn, tranh chấp trong nhân dân có thể xảy ra ở các cơ quan, tổ chức, các khu vực, vượt qua phạm vi thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố… Vì vậy, khi sửa Luật Hòa giải ở cơ sở không nên giới hạn cơ sở là thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố, khu phố… mà cần mở rộng phạm vi xã, phường, đặc khu.

Ngoài ra, các mâu thuẫn, tranh chấp có thể nảy sinh giữa các nhân viên, hội viên của các cơ quan, đơn vị, tổ chức. Trước đây, bộ phận công đoàn sẽ thực hiện giải quyết tranh chấp giữa người lao động, hội viên, nhân viên trong cơ quan, tổ chức; tuy nhiên từ ngày 15/6/2025 đã kết thúc hoạt động của Công đoàn viên chức Việt Nam[3]. Do vậy cần quy định mở để các cơ quan, đơn vị, tổ chức căn cứ vào nhu cầu thực tế tự quyết định việc thành lập Tổ hòa giải trong đơn vị, tổ chức của họ. Tương tự như tại Trung Quốc cho phép các tổ chức kinh tế, đơn vị việc làm, học viện công, căn cứ vào nhu cầu thực tế có quyền thiết lập Ủy ban hòa giải.

          Thứ hai, cần quy định mở rộng phạm vi hòa giải ở cơ sở. Hiện nay hòa giải viên ở cơ sở mới chỉ tiến hành hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp về dân sự và các xích mích nhỏ, bất đồng về quan điểm xảy ra trong gia đình, họ hàng, cộng đồng dân cư. Tuy nhiên, trên thực tế các tranh chấp cũng nảy sinh giữa người tiêu dùng với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh, nhưng những tranh chấp này chưa được quy định rõ ràng thuộc phạm vi hòa giải ở cơ sở trong các văn bản pháp luật về hòa giải ở cơ sở. Do vậy cần quy định bổ sung Tổ hòa giải ở cơ sở được tiến hành hòa giải các tranh chấp giữa người tiêu dùng với các tổ chức, đơn vị kinh doanh nhằm bảo đảm tính kịp thời, nhanh chóng trong bối cảnh hiện nay.

Thứ ba, cần quy định trách nhiệm của Tòa án nhân dân khu vực trong việc cung cấp tài liệu bồi dưỡng hướng dẫn áp dụng pháp luật, các vụ việc điển hình cho hòa giải viên ở cơ sở để nâng cao năng lực đội ngũ này. Thẩm phán là những người am hiểu chuyên sâu về pháp luật, đồng thời họ có kỹ năng điều hành phiên tòa một cách thuần thục, đối với thẩm phán trong lĩnh vực dân sự cần có kỹ năng hòa giải… Vì thế cần bổ sung vào Luật Hòa giải ở cơ sở quy định “Tòa án nhân dân khu vực có trách nhiệm cung cấp tài liệu bồi dưỡng, hướng dẫn cho Tổ hòa giải ở cơ sở thông qua Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp xã”.

          Thứ tư, cần quy định trách nhiệm của Thẩm phán trong việc khuyến nghị các bên hòa giải tại Tổ hòa giải ở cơ sở trước khi thụ lý vụ án dân sự. Thực tiễn cho thấy, trung bình mỗi Thẩm phán ở khu vực đô thị giải quyết trên 100 vụ, việc dân sự/năm. Đây là số lượng vụ, việc rất lớn nhất là trong bối cảnh đề cao quyền con người, quyền công dân thông qua quy định “Cơ quan, tổ chức, cá nhân do Bộ luật này quy định có quyền khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác. Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng[4]. Vì vậy, để giảm áp lực công việc, trên thực tế, các Thẩm phán thường khuyến nghị người dân nên giải quyết vụ, việc của mình tại Tổ hòa giải ở cơ sở trước khi khởi kiện vụ án. Do đó, đề nghị bổ sung quy định “Đối với tranh chấp có thể giải quyết được bằng hòa giải, trước khi thụ lý vụ, việc, Tòa án nhân dân khu vực thông báo cho các bên biết họ có thể đưa vụ việc ra tổ hòa giải ở cơ sở để tiến hành hòa giải”.

          Thứ năm, cần quy định trách nhiệm của hòa giải viên ở cơ sở về lập hồ sơ hòa giải. Thực tế cho thấy, trong quá trình hòa giải, hòa giải viên thu thập được một số tài liệu phục vụ cho việc hòa giải (bao gồm cả ghi chép lời trình bày của các bên), do đó cần quy định việc lưu trữ tài liệu này nhằm mục đích phục vụ Tòa án nhân dân ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở hoặc cung cấp cho Tòa án – nếu việc hòa giải không thành và các bên khởi kiện vụ việc ra Tòa án.  

          Thứ sáu, bổ sung quy định về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến thủ tục đề nghị Tòa án ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở. Luật Hòa giải ở cơ sở ban hành năm 2013, đến năm 2015 Bộ luật tố tụng dân sự được ban hành trong đó quy định về thủ tục công nhận hòa giải thành ngoài tòa án[5]. Vì vậy, để bảo đảm tính thống nhất, chặt chẽ và quy định cụ thể trách nhiệm của các chủ thể liên quan như hòa giải viên, các bên tranh chấp… thì cần thiết bổ sung các nội dung này vào Luật Hòa giải ở cơ sở, như: Quyền nộp đơn của các bên, trách nhiệm của hòa giải viên khi được Tòa án mời tham gia phiên giải quyết việc dân sự…

          Thứ bảy, bổ sung quy định về việc tổ chức hòa giải bằng trực tuyến. Nghiên cứu, đưa vào vận hành nền tảng số trong công tác hòa giải ở cơ sở, theo đó các bên có thể yêu cầu hòa giải, chọn hòa giải viên và tham gia hòa giải trực tuyến (online), ký thỏa thuận hòa giải bằng điện thoại thông minh, máy tính bảng, laptop hoặc phương tiện truyền dẫn trực tuyến khác.

          Trong bối cảnh nền kinh tế phát triển hiện đại, hệ thống chính trị có nhiều biến chuyển, các mối quan hệ xã hội thay đổi theo chiều hướng khác, vì vậy việc duy trì hòa giải ở cơ sở có vai trò quan trọng trong sự phát triển và giữ gìn chuẩn mực đạo đức, truyền thống văn hóa của Việt Nam. Bởi đây là thiết chế giải quyết tranh chấp nhanh chóng (do không phải áp dụng quy trình, thủ tục luật định), bảo đảm đáp ứng nhu cầu của mỗi bên, không để mâu thuẫn, tranh chấp ảnh hưởng đến sự phát triển, cơ hội kinh doanh, điều kiện làm việc của các bên tranh chấp và người có liên quan. Đồng thời, việc hòa giải ở cơ sở giúp duy trì được mối quan hệ mật thiết giữa các thành viên trong cộng đồng, xây dựng khối đoàn kết dân tộc. Ngoài ra, việc giải quyết tranh chấp bằng hòa giải ở cơ sở còn góp phần giảm áp lực cho các cơ quan hành chính nhà nước, các cơ quan tư pháp, đặc biệt là tòa án. Do đó, cũng tương tự Trung Quốc, cần coi hòa giải ở cơ sở là “viên ngọc”. Vì thế trong thời gian tới việc ban hành Luật hòa giải ở cơ sở (sửa đổi, bổ sung) là cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu của bối cảnh mới và sự phát triển của khoa học, công nghệ.
 Nguyễn Thị Quế
Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý
 
 

[1] Nhà nước chuyển giao cho người dân tự quyết định, tự giải quyết những vấn đề của mình; Nhà nước chỉ là chủ thể định hướng.
[2] Khi mâu thuẫn, tranh chấp được giải quyết bằng hòa giải sẽ xây dựng được khối đoàn kết cộng đồng, các bên phục hồi quan hệ đã bị rạn nứt; không tạo ra sự đối kháng, thù địch giữa các chủ thể như vụ việc được giải quyết bởi Tòa án hay cơ quan tư pháp, cơ quan hành chính nhà nước.
[3] Theo Nghị quyết số 60-NQ/TW ngày 12/4/2025 của Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII và Công văn số 4133/TLĐ-ToC ngày 23/5/2025 của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam về việc sắp xếp tổ chức bộ máy công đoàn theo tinh thần Nghị quyết số 60-NQ/TW.
[4] Điều 4 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
[5] Chương XXXIII Bộ luật tố tụng dân sự