Xác định vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn khi thụ lý yêu cầu trợ giúp pháp lý của người dân tộc thiểu số

Theo Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý quy định, người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn là một trong những diện người được trợ giúp pháp lý miễn phí. Theo đó, khi gặp vướng mắc pháp luật hình sự, dân sự, hành chính, hôn nhân, gia đình và các lĩnh vực pháp luật khác (trừ lĩnh vực pháp luật kinh doanh, thương mại) thì họ có quyền yêu cầu trợ giúp pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Theo Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 của Chính phủ về Công tác dân tộc thì dân tộc thiểu số là những dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số trên phạm vi lãnh thổ nước CHXHCN Việt Nam.
Trước đây, khi xác định các quy định về vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được thực hiện theo Thông tư liên tịch số 01/2012/TTLT-BTP-UBDT ngày 17/01/2012 về hướng dẫn thực hiện trợ giúp pháp lý đối với người dân tộc thiểu số, theo đó bao gồm xã, phường, thị trấn thuộc vùng khó khăn; xã, thôn, bản có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Cụ thể:
- Xã, phường, thị trấn vùng khó khăn: danh mục này do Thủ tướng ban hành tại Quyết định 1010/QĐ-TTg ngày 10/8/2018.
- Xã đặc biệt khó khăn:
+ Vùng dân tộc và miền núi: danh mục các xã khu vực III theo Quyết định 861/QĐ-TTg ngày 04/6/2021.
+ Vùng bãi ngang, ven biển, hải đảo: các xã theo Quyết định số 353/QĐ-TTg ngày 15/3/2022.
- Thôn đặc biệt khó khăn theo danh sách các thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021–2025 được phê duyệt tại Quyết định 612/QĐ-UBDT ngày 16/9/2021 và Quyết định số 497/QĐ-UBDT ngày 30/7/2024 của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc phê duyệt điều chỉnh, bổ sung và hiệu chỉnh tên huyện, xã, thôn đặc biệt khó khăn, thôn thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2025.
Như vậy, việc xác định vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được dẫn chiếu đến các quy định pháp luật có liên quan. Người dân tộc thiểu số cư trú trong các xã, phường, thị trấn hoặc thôn nêu trên đều thuộc diện được trợ giúp pháp lý miễn phí.
Tuy nhiên khi sáp nhập địa giới hành chính, các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý còn gặp lúng túng trong việc xác định vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn khi tiếp nhận yêu cầu của người dân tộc thiểu số cư trú tại vùng này để làm căn cứ thụ lý yêu cầu trợ giúp pháp lý. Theo Nghị định số 124/2025/NĐ-CP ngày 11/6/2025 của Chính phủ quy định về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực công tác dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo[1], việc phê duyệt danh sách xã khu vực III, II, I và công nhận thôn đặc biệt khó khăn thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2025 quy định tại khoản 4 Điều 7 Quyết định số 33/2020/QĐ-TTg ngày 12/11/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tiêu chí phân định vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi theo trình độ phát triển giai đoạn 2021 - 2025 thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Việc phân cấp thẩm quyền cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh vừa phù hợp với chủ trương phân cấp quản lý nhà nước trong lĩnh vực công tác dân tộc và thực tiễn mới trong xây dựng chính quyền địa phương hai cấp.
Ngày 18/7/2025 Bộ Dân tộc và Tôn giáo có Công văn số 1320/BDTTG-VPQGDTMN gửi Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về việc hướng dẫn, tháo gỡ vướng mắc trong triển khai Nghị định số 124/2025/NĐ-CP ngày 11/6/2025 của Chính phủ. Bộ đề nghị các địa phương căn cứ vào Điều 13 Nghị quyết số 76/2025/UBTVQH15 ngày 14/4/2025 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về việc sắp xếp đơn vị hành chính năm 2025 và hướng dẫn tại văn bản số 296/BDTTG-CS ngày 10/4/2025 hướng dẫn thực hiện chế độ, chính sách đối với đơn vị hành chính cấp xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi thực hiện sắp xếp, tổ chức lại để triển khai thực hiện. Cụ thể:
- Tại Điều 13 Nghị quyết số 76/2025/UBTVQH15 ngày 14/4/2025 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về việc sắp xếp đơn vị hành chính năm 2025 quy định việc thực hiện chế độ, chính sách đặc thù đối với đơn vị hành chính mới sau sắp xếp: (1) Người dân, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, người hưởng lương trong lực lượng vũ trang trên địa bàn đơn vị hành chính sau sắp xếp tiếp tục hưởng chế độ, chính sách đặc thù áp dụng theo vùng, theo khu vực hoặc theo đơn vị hành chính như trước khi thực hiện sắp xếp cho đến khi có quyết định khác của cấp có thẩm quyền. (2) Giữ nguyên phạm vi, đối tượng và nội dung của các chế độ, chính sách theo quy định của trung ương và địa phương áo dụng đối với đơn vị hành chính như trước khi sắp xếp cho đến khi có quyết định khác của cấp có thẩm quyền. (3) Trường hợp có thay đổi tên gọi của đơn vị hành chính sau sắp xếp thì sử dụng tên gọi mới của đơn vị hành chính để tiếp tục tổ chức thực hiện các chế độ, chính sách đặc thù.
- Tại Công văn số 296/BDTTG-CS ngày 10/4/2025 hướng dẫn thực hiện chế độ, chính sách đối với đơn vị hành chính cấp xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi thực hiện sắp xếp, tổ chức lại như sau:
+ Khi thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi có sự thay đổi về tên nhưng không có sự tác động, ảnh hưởng đến quy mô diện tích, ranh giới của xã, thôn thì sử dụng tên gọi mới để thực hiện các chế độ, chính sách như trước khi sắp xếp.
+ Khi thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã có sự tác động, ảnh hưởng đến quy mô diện tích, ranh giới của xã thì thực hiện như sau:
  • Các xã thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi và cùng khu vực (khu vực III, II, I) sáp nhập với nhau thì xã sau sáp nhập áp dụng các chế độ, chính sách như trước khi sắp xếp.
  • Xã thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi nhưng không cùng khu vực (khu vực III, II, I) sáp nhập với nhau hoặc xã thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi sáp nhập với xã không thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi thì xã sau sáp nhập áp dụng các chế độ, chính sách như trước khi sắp xếp cho đến khi cấp có thẩm quyền ban hành văn bản sửa đổi, bổ sung, thay thế.
+ Khi thực hiện sắp xếp các thôn nếu có sự tác động, ảnh hưởng đến quy mô, diện tích, ranh giời của thôn thì thực hiện như sau:
  • Các thôn đặc biệt khó khăn sáp nhập với nhau thì thôn sau sáp nhập áp dụng các chế độ, chính sách như trước khi sắp xếp.
  • Thôn thuộc diện đặc biệt khó khăn sáp nhập với thôn không thuộc diện đặc biệt khó khăn thì thôn sau sáp nhập áp dụng các chế độ, chính sách như trước khi sắp xếp cho đến khi cấp có thẩm quyền ban hành văn bản sửa đổi, bổ sung, thay thế.
Như vậy, trong thời gian Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chưa ban hành văn bản sửa đổi, bổ sung, thay thế thì việc xác định vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn áp dụng theo các văn bản hiện hành (Quyết định 861/QĐ-TTg ngày 04/6/2021; Quyết định số 353/QĐ-TTg ngày 15/3/2022; Quyết định 612/QĐ-UBDT ngày 16/9/2021 và Quyết định số 497/QĐ-UBDT ngày 30/7/2024) và các hướng dẫn nêu trên tại Công văn số 1320/BDTTG-VPQGDTMN và Công văn số 296/BDTTG-CS của Bộ Dân tộc và Tôn giáo.
Tuy nhiên, trong thời gian này khi tiếp nhận yêu cầu trợ giúp pháp lý của người dân tộc thiểu số, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước cần phải căn cứ hệ thống văn bản, tra cứu, đối chiếu giữa địa danh cũ và cập nhật địa danh mới sẽ tốn thời gian, nguồn lực và có thể dẫn tới thiếu, sai sót trong khâu xác định được vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Do đó, trong thời gian tới, đề nghị Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cần sớm ban hành theo thẩm quyền danh sách các phê duyệt danh sách xã khu vực III, II, I và công nhận thôn đặc biệt khó khăn thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi theo địa danh mới làm cơ sở, tạo thuận lợi cho các Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước và các cơ quan, tổ chức khác áp dụng, tra cứu thuận tiện./.
Thanh Trịnh
Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý
 
 

[1] có hiệu lực từ ngày 01/7/2025 và hết hiệu lực từ ngày 01/3/2027 (trừ trường hợp được cấp có thẩm quyền quyết định kéo dài thời gian áp dụng toàn bộ hoặc một phần Nghị định này).