Pháp lệnh Dân số năm 2003 được ban hành đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với công tác dân số. Đồng thời, trong thời gian qua, Đảng ta đã quan tâm, ban hành một số văn kiện về công tác dân số. Trong đó có Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới; Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 24/11/2023 của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nghị quyết số 21-NQ/TW khẳng định “Tiếp tục chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển”, đề ra các mục tiêu cụ thể về “Giải quyết toàn diện, đồng bộ các vấn đề về quy mô, cơ cấu, phân bố, chất lượng dân số và đặt trong mối quan hệ tác động qua lại với phát triển kinh tế - xã hội. Duy trì vững chắc mức sinh thay thế; đưa tỉ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên; tận dụng hiệu quả cơ cấu dân số vàng, thích ứng với già hoá dân số; phân bố dân số hợp lý; nâng cao chất lượng dân số, góp phần phát triển đất nước nhanh, bền vững”.
Nghị quyết số 42-NQ/TW khẳng định: “Đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số và phát triển theo hướng có quy mô, cơ cấu, phân bố hợp lý, cân bằng tỉ số giới tính khi sinh ở mức tự nhiên và duy trì mức sinh thay thế trên phạm vi cả nước, nhất là đối với một số địa bàn và nhóm dân cư. Nâng cao chất lượng dân số, tận dụng hiệu quả thời kỳ dân số vàng; sớm hoàn thiện khung chính sách quốc gia thích ứng với quá trình già hoá dân số; đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”.
Để thể chế hóa các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng về công tác dân số trong tình hình mới, đồng thời khắc phục một số hạn chế không còn phù hợp từ thực tiễn thi hành Pháp lệnh Dân số, hiện nay Bộ Y tế đang tham mưu đề xuất xây dựng Luật Dân số, trong đó có 06 dự thảo chính sách.
Một là: Duy trì mức sinh thay thế. Trong đó mục tiêu của chính sách này nhằm xây dựng các biện pháp duy trì vững chắc mức sinh thay thế trên phạm vi cả nước; quy định quyền, nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng, cá nhân trong việc sinh con, bảo đảm quyền con người trong thực hiện chính sách dân số; góp phần khắc phục tình trạng chênh lệch đáng kể mức sinh giữa các vùng, đối tượng, tận dụng lợi thế cơ cấu dân số vàng, làm chậm quá trình già hoá dân số; gắn với phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, phát triển đất nước bền vững.
Nội dung của chính sách tập trung vào quy định các biện pháp duy trì vững chắc mức sinh thay thế trên phạm vi cả nước. Chính phủ quy định các biện pháp, chính sách hỗ trợ cụ thể phù hợp từng thời kỳ và điều kiện phát triển kinh tế, xã hội của đất nước; Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trình cấp có thẩm quyền hoặc ban hành theo thẩm quyền các chính sách, giải pháp hỗ trợ, khuyến khích để đạt và duy trì mức sinh thay thế trên địa bàn, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, xã hội của địa phương; ưu tiên đối tượng chính sách, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng khó khăn, biên giới, hải đảo. Quy định quyền của cặp vợ chồng, cá nhân trong việc sinh con, thời gian sinh con, số con và khoảng cách giữa các lần sinh; đồng thời quy định nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng, cá nhân trong việc sinh con.
Hai là: Giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh và đưa tỉ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên. Mục tiêu của chính sách này nhằm xây dựng các giải pháp giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh, tiến tới đưa tỉ số giới tính khi sinh trở lại mức cân bằng tự nhiên, góp phần giảm thiểu những hệ lụy về xã hội và nhân khẩu học do tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh gây ra, thúc đẩy bình đẳng giới.
Nội dung của chính sách tập trung vào quy định các biện pháp can thiệp vào nguyên nhân gốc rễ của việc lựa chọn giới tính khi sinh là sự ưa thích sinh con trai, quan niệm về việc mong muốn có con trai để nối dõi tông đường; các biện pháp hỗ trợ nâng cao vai trò, vị thế của phụ nữ và trẻ em gái; tuyên truyền vận động, truyền thông, giáo dục nâng cao nhận thức về bình đẳng giới, không lựa chọn giới tính thai nhi; thực hiện có hiệu quả các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới. Quy định nghiêm cấm các hành vi lựa chọn giới tính khi sinh dưới mọi hình thức; thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm.
Ba là: Thích ứng với già hóa dân số, dân số già. Mục tiêu của chính sách này nhằm xây dựng các giải pháp góp phần thích ứng quá trình già hoá dân số, dân số giả; có biện pháp giải quyết xu hướng già hoá dân số trong thời gian tới.
Nội dung của chính sách tập trung vào quy định Nhà nước định hướng phát triển các dịch vụ chăm sóc người cao tuổi; đẩy mạnh sự tham gia của khu vực tư nhân trong chăm sóc người cao tuổi. Phát triển cơ sở chăm sóc ban ngày kết hợp chăm sóc sức khỏe người cao tuổi tại gia đình, cộng đồng; phát triển các thiết bị chăm sóc, công cụ hỗ trợ cho người cao tuổi; khuyến khích, tạo điều kiện để tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân đầu tư, đóng góp nguồn lực xây dựng cơ sở chăm sóc dài hạn cho người cao tuổi; chính sách khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp hỗ trợ người cao tuổi tìm kiếm việc làm và sử dụng người lao động cao tuổi; tổ chức, doanh nghiệp thành lập cơ sở chăm sóc dài hạn cho người cao tuổi; quy định việc thành lập, tổ chức, hoạt động, giải thể cơ sở chăm sóc dài hạn người cao tuổi
Bốn là: Phân bố dân số hợp lý. Mục tiêu của chính sách này nhằm xây dựng các giải pháp phân bố dân số hợp lý gắn với phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và sử dụng hợp lý, hiệu quả, bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường. Tạo điều kiện thuận lợi cho người di cư tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản về y tế, giáo dục, thông tin truyền thông, nước sạch...; thu hút, tạo điều kiện cho người dân sinh sống ổn định, lâu dài ở các khu vực khó khăn, trọng yếu về an ninh, quốc phòng.
Nội dung của chính sách tập trung vào quy định Nhà nước thực hiện việc phân bố dân số hợp lý giữa khu vực nông thôn, đô thị, vùng địa lý kinh tế, các đơn vị hành chính; thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và sử dụng hợp lý, hiệu quả, bền vững tài nguyên, thiên nhiên gắn với công tác quản lý, bảo vệ tài nguyên, môi trường. Quy định các biện pháp điều chỉnh phân bố dân số hợp lý; phân bố dân số nông thôn, đô thị, vùng thiên tai do tác động của biến đổi khí hậu, vùng đặc biệt khó khăn, vùng biên giới, hải đảo (địa bàn có vị trí trọng yếu về quốc phòng, an ninh), vùng dân di cư tự do, khu rừng phòng hộ, đặc dụng; di cư trong nước và di cư quốc tế.
Năm là: Nâng cao chất lượng dân số. Mục tiêu của chính sách này nhằm thực hiện tư vấn. khám sức khỏe trước khi kết hôn; tầm soát trước sinh và sơ sinh; ngăn chặn tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống nhằm chăm sóc sức khỏe, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh, đáp ứng nguồn nhân lực để phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, phát triển đất nước bền vững.
Nội dung của chính sách tập trung quy định các biện pháp thực hiện tư vấn, khám sức khỏe trước khi kết hôn, sinh con; tầm soát, chẩn đoán, điều trị trước sinh và sơ sinh; ngăn chặn tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống; mọi phụ nữ mang thai đều được chăm sóc sức khỏe; quy định về xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh; nâng cao chất lượng dân số.
Sáu là: Lồng ghép các yếu tố dân số trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Mục tiêu của chính sách này nhằm lồng ghép các yếu tố dân số trong xây dựng, thực hiện các chiến lược, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế, xã hội; trong huy động các nguồn lực cho phát triển kinh tế, xã hội, phát triển bền vững của đất nước.
Nội dung của chính sách tập trung quy định nội dung cơ bản để thực hiện lồng ghép các yếu tố dân số trong các chiến lược, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế, xã hội; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong xây dựng, thực hiện lồng ghép các yếu tố dân số vào các chiến lược, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế, xã hội. Đối với việc lồng ghép dân số vào quy hoạch thực hiện theo quy định của pháp luật về quy hoạch./.
Nguyễn Giang
Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật