Ngày 31/12/2024, Chính phủ ban hành Nghị định số 178/2024/NĐ-CP quy định về chính sách, chế độ đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và lực lượng vũ trang trong thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Nghị định được ban hành nhằm mục đích bảo đảm quyền lợi cho cán bộ, công chức, viên chức nghỉ việc do sắp xếp tổ chức bộ máy, góp phần thực hiện mục tiêu sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Theo đó, có 08 chính sách lớn đối với các cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và lực lượng vũ trang, cụ thể:
Một là, chính sách đối với người nghỉ hưu trước tuổi. Chế độ nghỉ hưu trước tuổi đối với cán bộ, công chức còn đủ 10 năm công tác mà nghỉ hưu trước tuổi, sẽ được trợ cấp hưu trí một lần và các chế độ chính sách nghỉ hưu trước tuổi. Cụ thể, nếu có tuổi đời còn dưới 5 năm đến tuổi nghỉ hưu, được hưởng trợ cấp bằng 1 tháng lương hiện hưởng nhân với số tháng nghỉ sớm; nếu có tuổi đời còn đủ 5-10 năm đến tuổi nghỉ hưu, được hưởng trợ cấp bằng 0,9 tháng tiền lương nhân với số tháng nghỉ sớm (được hưởng tối đa là 60 tháng). Ngoài ra, người nghỉ hưu trước tuổi còn được hưởng nguyên lương hưu và không bị trừ tỷ lệ lương hưu do nghỉ hưu trước tuổi. Trong đó, cán bộ, công chức sẽ được hưởng trợ cấp nghỉ hưu trước tuổi bao gồm: Đối với người còn đủ 2-5 năm đến tuổi nghỉ hưu, được trợ cấp bằng 5 tháng tiền lương hiện hưởng cho mỗi năm nghỉ sớm; đối với người còn trên 5 năm đến 10 năm mới đến tuổi nghỉ hưu, được trợ cấp bằng 4 tháng tiền lương hiện hưởng cho mỗi năm nghỉ hưu sớm. Cùng với đó, đối tượng này còn được hưởng trợ cấp theo thời gian công tác có trên 20 năm đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Hai là, chính sách đối với cán bộ được kéo dài thời gian công tác. Cán bộ đã quá tuổi nghỉ hưu theo quy định nhưng được Bộ Chính trị, Ban Bí thư quyết định kéo dài thời gian công tác làm việc trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội, nếu nghỉ hưu thì được trợ cấp hưu trí một lần bằng 30 tháng tiền lương hiện hưởng và hưởng chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.
Ba là, chính sách nghỉ thôi việc đối với cán bộ, công chức lãnh đạo quản lý, cán bộ, công chức cấp xã. Cán bộ, công chức có tuổi đời từ đủ 02 năm trở lên đến tuổi nghỉ hưu theo quy định và không đủ điều kiện hưởng chính sách nghỉ hưu trước tuổi, nếu nghỉ thôi việc thì được hưởng các chế độ: (i) Được hưởng trợ cấp thôi việc: Đối với người nghỉ thôi việc trong thời hạn 12 tháng đầu tiên kể từ khi có quyết định sắp xếp tổ chức bộ máy của cấp có thẩm quyền thì được hưởng trợ cấp bằng 0,8 tháng tiền lương hiện hưởng nhân với số tháng tính hưởng trợ cấp thôi việc; đối với người nghỉ thôi việc từ tháng thứ 13 trở đi kể từ khi có quyết định sắp xếp tổ chức bộ máy của cấp có thẩm quyền thì được hưởng bằng 0,4 tháng tiền lương hiện hưởng nhân với số tháng tính hưởng trợ cấp thôi việc; (ii) Được trợ cấp 1,5 tháng tiền lương hiện hưởng cho mỗi năm công tác có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc; (iii) Được bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội hoặc hưởng bảo hiểm xã hội một lần theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội; (iv) Được trợ cấp 03 tháng tiền lương hiện hưởng để tìm việc làm.
Bốn là, chính sách nghỉ thôi việc đối với viên chức lãnh đạo quản lý và người lao động làm việc theo chế độ hợp đồng lao động trước thời điểm 15/01/2019 và người làm việc theo chế độ hợp đồng lao động được áp dụng chính sách như công chức. Các trường hợp này sẽ được hưởng các chế độ: (i) Được hưởng trợ cấp thôi việc: đối với người nghỉ thôi việc trong thời hạn 12 tháng đầu tiên kể từ khi có quyết định sắp xếp tố chức bộ máy của cấp có thẩm quyền thì được hưởng trợ cấp bằng 0,8 tháng tiền lương hiện hưởng nhân với số tháng tính hưởng trợ cấp thôi việc; đối với người nghỉ thôi việc từ tháng thứ 13 trở đi kể từ khi có quyết định sắp xếp tổ chức bộ máy của cấp có thẩm quyền thì được hưởng bằng 0,4 tháng tiền lương hiện hưởng nhân với số tháng tính hưởng trợ cấp thôi việc; (ii) Được trợ cấp 1,5 tháng tiền lương hiện hưởng cho mỗi năm công tác có đóng bảo hiểm xã hội bẳt buộc; (iii) Được bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội hoặc hưởng bảo hiểm xã hội một lần theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội; (iv) Được hưởng bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp.
Năm là, chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức lãnh đạo quản lý thôi giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý hoặc được bầu cử, bổ nhiệm giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý thấp hơn do sắp xếp tổ chức bộ máy. Cán bộ, công chức, viên chức lãnh đạo, quản lý thôi giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý hoặc được bầu cử, bổ nhiệm giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý thấp hơn do sắp xếp tổ chức bộ máy, thì được bảo lưu mức lương chức vụ cũ hoặc phụ cấp chức vụ lãnh đạo cũ đến hết nhiệm kỳ bầu cử hoặc hết thời hạn bổ nhiệm. Trường hợp đã giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý theo nhiệm kỳ bầu cử hoặc thời hạn bổ nhiệm còn dưới 06 tháng thì được bảo lưu 06 tháng.
Sáu là, chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức tăng cường đi công tác ở cơ sở.
Bảy là, chính sách trọng dụng người có phẩm chất, năng lực nổi trội.
Tám là, chính sách đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ, công chức, viên chức sau sắp xếp.
Đối với lực lượng vũ trang, chính sách cơ bản giống với các cán bộ, công chức, viên chức, người lao động. Tuổi nghỉ hưu để tính hưởng chính sách, chế độ đối với từng đối tượng thuộc lực lượng vũ trang như sau: Đối với sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam thì tuổi nghỉ hưu thực hiện theo quy định của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam và các văn bản hướng dẫn. Đối với quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng thì tuổi nghỉ hưu thực hiện theo quy định của Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng và các văn bản hướng dẫn. Đối với sĩ quan, hạ sĩ quan hưởng lương và công nhân công an thì tuổi nghỉ hưu thực hiện theo quy định của Luật Công an nhân dân và các văn bản hướng dẫn. Đối với người làm việc trong tổ chức cơ yếu; lao động hợp đồng hưởng lương từ ngân sách nhà nước thuộc Công an nhân dân, thì tuổi nghỉ hưu thực hiện theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội và Nghị định số 135/2020/NĐ-CP./.
Hoàng Việt Hà
Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật