Trợ giúp pháp lý ở Việt Nam: Nhìn lại chặng đường đã qua và yêu cầu cho giai đoạn mới (Phần 2)

Chiến lược và Đề án đổi mới đã thể hiện vai trò định hướng xuyên suốt, toàn diện cho công tác TGPL trong những thời điểm nhất định, mang lại nhiều chuyển biến rõ nét, tạo nền tảng quan trọng cho việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động TGPL, góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội với những tác động cụ thể như sau:

Thứ nhất, Chiến lược và Đề án đổi mới đã định hình rõ phương hướng phát triển ổn định, bền vững cho hệ thống TGPL, hướng đến xây dựng đội ngũ trợ giúp viên pháp lý chất lượng, chuẩn hóa quy trình thực hiện, đa dạng hóa hình thức TGPL và tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin. Công tác TGPL từng bước được đổi mới theo hướng hiện đại, chuyên nghiệp và hiệu quả hơn.

Thứ hai, hoạt động TGPL đã góp phần nâng cao nhận thức pháp luật, bảo đảm quyền tiếp cận công lý cho người dân, đặc biệt là nhóm yếu thế như người nghèo, người dân tộc thiểu số, người khuyết tật, phụ nữ, trẻ em… Qua đó, TGPL trở thành công cụ hữu hiệu giúp phòng ngừa và giải quyết tranh chấp, hạn chế đơn thư khiếu kiện, giữ gìn an ninh trật tự, tạo dựng môi trường xã hội ổn định, văn minh, pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Thứ ba, công tác TGPL tập trung vào thực hiện vụ việc TGPL, nhất là vụ việc tham gia tố tụng. Vụ việc TGPL không chỉ tăng về số lượng mà còn nâng cao chất lượng, khẳng định tính đúng đắn trong định hướng thực hiện vụ việc TGPL của Đề án đổi mới từ 2015 đến khi Luật TGPL năm 2017 có hiệu lực. Thông qua việc thực hiện vụ việc TGPL, đội ngũ trợ giúp viên pháp lý được trau dồi, rèn luyện chuyên môn nghiệp vụ và kĩ năng nghề nghiệp, nâng cao năng lực và chất lượng TGPL.

Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

Thứ nhất, một số mục tiêu, chỉ tiêu, lộ trình thực hiện nhiệm vụ, định hướng đặt ra tại Chiến lược và Đề án đổi mới không còn phù hợp nên không sử dụng làm định hướng khi xây dựng Luật TGPL năm 2017[1].

Thứ hai, một số chỉ tiêu mang tính định lượng trong Chiến lược và Đề án không còn phù hợp do khả năng tiếp cận dịch vụ còn phụ thuộc vào nhận thức, điều kiện địa lý, nguồn lực con người và tài chính của các địa phương; thiếu các công cụ đánh giá việc tiếp cận dịch vụ của người dân nên khó kiểm chứng được mức độ đạt chỉ tiêu[2].
Thứ ba, việc triển khai Nghị quyết số 18-NQ/TW về sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu quả đã dẫn đến yêu cầu rà soát, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập, trong đó có Trung tâm TGPL nhà nước. Do đó, một số chỉ tiêu về biên chế, số lượng trợ giúp viên pháp lý không đạt được, ảnh hưởng đến tính khả thi và kết quả thực hiện các nhiệm vụ đặt ra trong Chiến lược và Đề án đổi mới. Ví dụ, Chiến lược đề ra chỉ tiêu phát triển Quỹ TGPL Việt Nam và mở rộng Chi nhánh của Quỹ ở địa phương[3], thành lập Chi nhánh của Trung tâm,[4] thành lập Câu lạc bộ TGPL[5], phát triển số lượng trợ giúp viên pháp lý và đội ngũ cộng tác viên...[6]. Trong khi đó, Đề án đổi mới yêu cầu tạm dừng hoạt động của Quỹ, không thành lập mới Chi nhánh và Câu lạc bộ TGPL, giảm biên chế trợ giúp viên pháp lý...   

Thứ tư, việc xác định đối tượng, hình thức TGPL trong Chiến lược và Đề án đổi mới chưa theo kịp sự thay đổi nhanh của xã hội, đặc biệt là các yếu tố như đô thị hóa, di cư lao động, già hóa dân số, sự phát triển của khoa học công nghệ, chuyển đổi số…

Thứ năm, phương thức triển khai và giải pháp trong Chiến lược và Đề án đổi mới còn hạn chế về cách thức tổ chức thực hiện, ứng dụng công nghệ thông tin; chưa quy định đầy đủ yêu cầu chuyển đổi số, xây dựng và kết nối hệ thống cơ sở dữ liệu TGPL, đẩy mạnh số hóa hồ sơ vụ việc TGPL…

Thứ sáu, chưa có cơ chế, giải pháp phù hợp thu hút đa dạng các tổ chức và cá nhân tham gia TGPL[7] nên số lượng các tổ chức, cá nhân tham gia TGPL còn ít so với số lượng tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật trên toàn quốc[8]. Số lượng vụ việc do cộng tác viên TGPL thực hiện còn thấp[9].

Thứ bảy, thiếu định hướng cụ thể về chuyển đổi số, các quy định về ứng dụng CNTT chủ yếu dừng lại ở mức tin học hóa, xây dựng phần mềm quản lý dữ liệu vụ việc TGPL mà chưa định hướng một cách toàn diện về TGPL số, chưa dự liệu các hình thức TGPL trực tuyến trên nền tảng số, video call, app di động, chatbot, sử dụng trí tuệ nhân tạo; kết nối, chia sẻ dữ liệu liên thông; việc triển khai ứng dụng CNTT trong TGPL mới chỉ ở bước đầu, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, chưa đáp ứng mục tiêu của Đề án 06/TTg và chỉ đạo của Chính phủ về Chỉnh phủ số và dịch vụ công trực tuyến không giấy tờ[10].

Nguyên nhân khách quan

Thứ nhất, Chiến lược và Đề án đổi mới đều được ban hành có tính chất ổn định, dài hạn cách đây hơn 10 năm, khi yêu cầu cải cách bộ máy nhà nước, cải cách pháp luật, phát triển kinh tế - xã hội và “chuyển đổi số" chưa phát triển mạnh mẽ mang tính đột phá như hiện nay.

Thứ hai, Luật TGPL năm 2017 được ban hành quy định cụ thể về vai trò của TGPL, trách nhiệm của Nhà nước và Trung tâm; thêm vào đó, mô hình tổ chức TGPL, tiêu chuẩn người thực hiện TGPL, đối tượng được TGPL, phương thức tổ chức hoạt động TGPL... đã thay đổi căn bản. Vì vậy, từ năm 2018 đến nay, những mục tiêu không phù hợp với Luật thì không được tiếp tục thực hiện.

Thứ ba, chưa có hành lang pháp lý đầy đủ cho việc phát triển các mô hình TGPL hiện đại hoạt động một cách linh hoạt; số lượng, chất lượng và trách nhiệm của đội ngũ trợ giúp viên pháp lý cần phải chú trọng hơn. Hiện nay, trước yêu cầu chuyển đổi số mạnh mẽ, nhu cầu TGPL từ xa, TGPL qua nền tảng số, đổi mới công tác phối hợp liên ngành…, thì Chiến lược và Đề án đổi mới chưa có quy định cụ thể về tiêu chuẩn và phương thức triển khai các yêu cầu này. Thêm vào đó, quy định về huy động sự tham gia TGPL của xã hội chưa đủ sức thu hút mạnh các luật sư và các tổ chức hành nghề luật sư tham gia TGPL[11].

Thứ , người dân tiếp cận TGPL còn hạn chế do: (1) nhận thức của nhiều người dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn vẫn còn hạn chế; nhiều cán bộ làm công tác truyền thông chưa được trang bị kiến thức và kỹ năng về truyền thông hiện đại; (2) ở một số địa phương, cơ quan tiến hành tố tụng chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm giải thích, thông báo, thông tin về TGPL theo đúng quy định của pháp luật.

Nguyên nhân chủ quan

Thứ nhất, khi xây dựng Chiến lược và Đề án đổi mới, việc dự báo các xu hướng phát triển kinh tế - xã hội, những đột phá mới trong khoa học công nghệ cùng với yêu cầu cải cách tổ chức bộ máy nhà nước, cái cách pháp luật và yêu cầu sửa đổi Luật TGPL chưa được đánh giá một cách đầy đủ, kịp thời.

Thứ hai, trong quá trình triển khai, công tác theo dõi, kiểm tra, đánh giá việc thực hiện Chiến lược và Đề án đổi mới chưa được thực hiện thường xuyên, chưa kịp thời phát hiện các khó khăn, vướng mắc và đề xuất các giải pháp điều chỉnh phù hợp.

Thứ ba, mức độ quan tâm của cấp ủy, chính quyền địa phương, cũng như các điều kiện về nhân lực, kinh phí, cơ sở vật chất, hạ tầng công nghệ, đội ngũ cán bộ TGPL còn chưa đồng đều, đặc biệt là các địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa.

Đề xuất, kiến nghị

Thứ nhất, đề nghị các Bộ, ngành trong quá trình xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách, nhất là các chính sách về quyền con người, quyền công dân, bảo đảm an sinh xã hội, cần chú trọng xây dựng các quy định bảo đảm quyền được TGPL của người dân, qua đó góp phần củng cố hệ thống pháp luật, tạo điều kiện để người dân được tiếp cận công lý.

Thứ hai, đề nghị UBND cấp tỉnh chỉ đạo Sở Tư pháp và các đơn vị có liên quan:

- Bám sát hướng dẫn của Bộ Tư pháp để chủ động phối hợp với các cơ quan, đơn vị tại địa phương tổ chức rà soát, đánh giá việc thi hành Luật TGPL năm 2017 và các văn bản có liên quan. Trên cơ sở đó, tổng hợp kết quả thực hiện, xác định những tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai, đồng thời đề xuất, kiến nghị các giải pháp sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chính sách, pháp luật về TGPL, bảo đảm phù hợp với thực tiễn và đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa, nâng cao chất lượng công tác TGPL trong thời gian tới.

- Tập trung kiện toàn tổ chức thực hiện TGPL, ưu tiên nguồn lực tương xứng cho các Trung tâm TGPL, nâng cao năng lực đội ngũ trợ giúp viên pháp lý đáp ứng yêu cầu của đơn vị sự nghiệp công thiết yếu, phù hợp với mô hình chính quyền địa phương hai cấp và mô hình tổ chức của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân (nhất là những địa phương thực hiện hợp nhất tỉnh).

- Tiếp tục đổi mới công tác truyền thông về TGPL, nhất là các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn và vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tăng cường ứng dụng công nghệ mới, chuyển đổi số, đẩy mạnh hoàn thiện cơ sở dữ liệu, số hóa hồ sơ vụ việc và cải cách các thủ tục hành chính trong lĩnh vực TGPL.

- Huy động đội ngũ người thực hiện TGPL, nhất là trợ giúp viên pháp lý, tham gia hỗ trợ chính quyền địa phương hai cấp về chuyên môn, nghiệp vụ và kịp thời hướng dẫn người dân ở cơ sở khi làm việc hoặc thực hiện các giao dịch với các cơ quan nhà nước ở địa phương.
                                                   Tuyết Minh
Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý
 

[1] Ví dụ, Đề án đề ra mục tiêu chuyển đổi mô hình Trung tâm từ trực tiếp cung cấp dịch vụ TGPL thành cơ quan thực hiện quản lý nhà nước về TGPL, không thành lập mới Chi nhánh, chuyển việc thực hiện TGPL cho các tổ chức hành nghề luật sư và luật sư thực hiện, chuyển đổi trợ giúp viên pháp lý thành luật sư để ký hợp đồng thực hiện TGPL.
[2] Ví dụ, Chiến lược nêu mục tiêu phát triển trong giai đoạn 2016 - 2020: Từ 80% - 95% người dân biết về quyền được TGPL và các thông tin liên quan đến tổ chức, điều kiện, trình tự, thủ tục TGPL.
[3] Quỹ TGPL Việt Nam được thành lập năm 2008 theo Quyết định số 84/2008/QĐ-TTg ngày 30/6/2008 của Thủ tướng Chính phủ nhưng bị tạm dừng tổ chức và hoạt động theo Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 01/6/2015 của Thủ tướng Chính phủ và không được quy định trong Luật TGPL năm 2017.
[4] Chiến lược yêu cầu thành lập Chi nhánh của Quỹ tại các huyện xa trung tâm, phát triển thêm Chi nhánh ở các xã của các huyện miền núi, vùng sâu, vùng xa.
[5] Chiến lược đặt mục tiêu đến năm 2020, câu lạc bộ TGPL được thành lập ở 100% số xã, phường, thị trấn và duy trì sinh hoạt thường xuyên.
[6] Chiến lược đặt mục tiêu đến năm 2015 phát triển 1.000 người thực hiện TGPL chuyên nghiệp của nhà nước và 12.000 cộng tác viên TGPL; đến năm 2020 phát triển đội ngũ người thực hiện TGPL chuyên nghiệp của nhà nước khoảng 1.500 người và đội ngũ cộng tác viên khoảng 20.000 người.
[7] Chiến lược chủ yếu khuyến khích sự cần thiết đa dạng hóa chủ thể tham gia TGPL. Đề án đổi mới chủ yếu định hướng đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động TGPL, tập trung tăng cường vai trò của tổ chức hành nghề luật sư và cá nhân luật sư trong TGPL. Tuy vậy, trên thực tế nhiều địa phương không có tổ chức hành nghề luật sư hoặc luật sư tham gia TGPL như: Vũng Tàu, Hà Nội, Quảng Bình, Thanh Hóa.
[8] Tính đến tháng 12/2024, có 6.000 tổ chức hành nghề luật sư nhưng mới chỉ có 161 tổ chức hành nghề luật sư tham gia TGPL.
[9] Một số địa phương như Lâm Đồng, Đồng Tháp báo cáo cộng tác viên không thực hiện vụ việc TGPL năm 2024.
[10] Báo cáo của các địa phương: Lâm Đồng, Quảng Nam, Cần Thơ, Đồng Nai, Bắc Ninh, Thanh Hóa.
[11] Quy định tăng thù lao, chi phí thực hiện vụ việc TGPL nhưng vẫn còn rất thấp so với dịch vụ pháp lý có thu phí; chưa có cơ chế khen thưởng, vinh danh đối với các cá nhân, tổ chức tích cực tham gia hoạt động TGPL...