Đột phá thể chế: Hội thảo Khoa học cấp Bộ với chủ đề “Thực trạng cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam”

Chiều Thứ Tư, ngày 29 tháng 10 năm 2025, Hội thảo Khoa học cấp Bộ với chủ đề “Thực trạng cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam” đã được Viện Chiến lược khoa học pháp lý tổ chức tại Trụ sở Bộ Tư pháp, số 58 - 60 Trần Phú, Ba Đình, Hà Nội. Buổi làm việc diễn ra trong không khí trang trọng và nghiêm túc, tập trung vào nhiệm vụ, giải pháp căn cơ, cốt lõi là lấy ý kiến các nhà chuyên gia, khoa học để đánh giá toàn diện hệ thống pháp luật quốc gia. Hội thảo có sự tham gia của Lãnh đạo Bộ Tư pháp – Thứ trưởng Nguyễn Thanh Tịnh và Lãnh đạo Viện Chiến lược và Khoa học pháp lý – Viện trưởng Nguyễn Văn Cương trong vai trò khai mạc và điều hành. Tham gia ý kiến hội thảo còn có sự đóng góp của nhiều chuyên gia và nhà khoa học, bao gồm: ông Ngô Trung Thành (Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội); TS. Hoàng Thị Ngân (Nguyên Vụ trưởng Vụ Tổ chức hành chính nhà nước và công vụ, Văn phòng Chính phủ); PGS.TS. Nguyễn Thị Nga (Trường Đại học Luật Hà Nội); Đồng chí Ngô Đức Minh (Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Công Thương); và TS. Nguyễn Quỳnh Liên (UBTƯMTTQ Việt Nam). Các đại biểu đã tập trung phân tích từ tổng quan về cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam, đến thực trạng cụ thể trong các lĩnh vực trọng yếu như tổ chức bộ máy nhà nước, pháp luật kinh doanh bất động sản, và lĩnh vực công thương.

Sau gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã thiết lập được khung cấu trúc pháp luật cơ bản, khá đầy đủ trong nhiều lĩnh vực trên nền tảng Hiến pháp và các luật, bộ luật có tính chất rường cột. Hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay với khoảng trên 200 luật, bộ luật cùng các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật đang còn hiệu lực bao phủ hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ dân sự, kinh doanh, thương mại, hình sự, tổ chức bộ máy nhà nước, tố tụng, quyền con người, giáo dục, y tế, bảo vệ môi trường đến việc bước đầu có các quy định điều chỉnh một số lĩnh vực mới như chuyển đổi số, biến đổi khí hậu, an ninh mạng… đáp ứng được nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội trong 40 năm đầu của thời kỳ đổi mới, gắn liền với quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Mặc dù đạt được nhiều thành tựu, trước yêu cầu phát triển bứt phá của đất nước trong giai đoạn từ nay tới 2045, thực hiện cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy của hệ thống chính trị, thực hiện mô hình chính quyền địa phương 02 cấp, thực hiện 04 Nghị quyết gần đây của Bộ Chính trị, hệ thống pháp luật hiện hành còn bộc lộ không ít hạn chế, bất cập cả về cấu trúc, nội dung và kỹ thuật thiết kế, đặt ra yêu cầu cấp thiết phải nghiên cứu, để tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật theo mô hình phát triển mới.

Hiện nay, Hệ thống pháp luật hiện hành còn nhiều tầng nấc, nhiều loại hình văn bản quy phạm pháp luật đi kèm với tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo hoặc chưa đồng bộ ở một số lĩnh vực. Trong một số trường hợp, quy tắc chỉ dẫn xác định thứ bậc hiệu lực giữa một số văn bản quy phạm pháp luật chưa rõ ràng (nhất là xác định thứ tự ưu tiên áp dụng giữa luật chung và luật chuyên ngành; xác định thứ tự ưu tiên áp dụng giữa văn bản do cơ quan trong hệ thống hành chính ban hành và văn bản do Tòa án nhân dân tối cao hoặc Viện Kiểm sát nhân dân tối cao ban hành), ảnh hưởng tới tính nhất quán trong áp dụng pháp luật..

Hệ thống pháp luật hiện nay cũng chưa bao phủ hết và theo kịp sự phát triển nhanh chóng và đa dạng của đời sống kinh tế - xã hội, đặc biệt là chưa bao phủ được những lĩnh vực mới phát sinh trước tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư như kinh tế số, kinh tế dữ liệu, trí tuệ nhân tạo, chuỗi khối (blockchain), kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn… Việc chậm hình thành các ngành luật mới khiến việc điều chỉnh pháp luật trong các lĩnh vực này còn có phần bị động, thiếu tính dẫn dắt và dự báo. Việc thiết kế từng quy phạm pháp luật còn chưa bảo đảm tính chuẩn mực khi không ít quy định pháp luật vẫn chưa tuân thủ đầy đủ cấu trúc cơ bản của một quy phạm hoàn chỉnh (bao gồm có đủ cả giả định, quy định và chế tài). Thay vào đó, tồn tại khá nhiều quy định mang tính tuyên ngôn, định hướng chung, không xác định rõ cơ chế thưởng phạt cụ thể, thiếu công cụ theo dõi, giám sát thực thi, dẫn đến chậm hoặc khó đi vào cuộc sống. Bên cạnh đó, ngôn ngữ pháp lý trong một số lĩnh vực vẫn chưa được chuẩn hóa, còn tồn tại tình trạng sử dụng thuật ngữ không nhất quán, thiếu tính chính xác, gây khó khăn trong việc diễn giải, áp dụng và dễ dẫn đến cách hiểu khác nhau giữa các chủ thể thực thi pháp luật.

Đồng thời, Hội thảo đưa ra các giải pháp để tháo gỡ những vướng mắc và khắc phục các điểm nghẽn trên, việc tái cấu trúc pháp luật cần phải lấy việc thể chế hóa đầy đủ các chủ trương của Đảng và lấy quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, tổ chức, doanh nghiệp làm trung tâm. Về mặt cấu trúc, cần cân đối lại hệ thống, hài hòa giữa pháp luật về phát triển kinh tế thị trường, xây dựng Nhà nước pháp quyền, và phát huy dân chủ, bảo đảm quyền con người. Việc đơn giản hóa hệ thống bằng cách giảm bớt tầng nấc, loại văn bản quy phạm pháp luật không cần thiết là yêu cầu cấp thiết. Cần xác định rõ phạm vi điều chỉnh của từng loại văn bản, gắn với việc phân định rành mạch thẩm quyền ban hành. Đồng thời, cần bổ sung nguyên tắc luật chuyên ngành ưu tiên luật chung vào Luật Ban hành VBQPPL để giải quyết xung đột pháp luật một cách nhất quán. Về kỹ thuật, cần mở rộng hợp lý trường hợp luật chuyên ngành được quy định các biện pháp chế tài đặc thù. Quan trọng hơn, cần tập trung xây dựng pháp luật kiến tạo cho các lĩnh vực mới như chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, và ứng dụng trí tuệ nhân tạo, tạo hành lang pháp lý cho những vấn đề phi truyền thống. Cuối cùng, việc xây dựng và vận hành Cơ sở dữ liệu pháp luật quốc gia mở, đa ngôn ngữ, có khả năng ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong tra cứu là cần thiết để hiện đại hóa công tác xây dựng và quản lý pháp luật. Khi luật pháp trở nên minh bạch, ổn định, khả thi và dễ tiếp cận, nó sẽ thực sự trở thành động lực mạnh mẽ, giải phóng mọi nguồn lực, giúp đất nước “bứt phá, chuyển mình mạnh mẽ” trên chặng đường hướng tới năm 2045.

Hội thảo Khoa học cấp Bộ: “Thực trạng cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam” – Gợi mở hướng tái cấu trúc toàn diện vì một nền pháp luật hiện đại, minh bạch và kiến tạo phát triển

Chiều ngày 29/10/2025, tại Trụ sở Bộ Tư pháp (số 58–60 Trần Phú, Ba Đình, Hà Nội), Viện Chiến lược và Khoa học pháp lý đã tổ chức Hội thảo Khoa học cấp Bộ với chủ đề “Thực trạng cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam”.

Hội thảo có sự tham dự của Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, Viện trưởng Viện Chiến lược và Khoa học pháp lý Nguyễn Văn Cương, cùng nhiều chuyên gia, nhà khoa học hàng đầu trong lĩnh vực pháp lý, gồm:

Ông Ngô Trung Thành – Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội;
TS. Hoàng Thị Ngân – Nguyên Vụ trưởng Vụ Tổ chức hành chính nhà nước và công vụ, Văn phòng Chính phủ;
PGS.TS. Nguyễn Thị Nga – Trường Đại học Luật Hà Nội;
ông Ngô Đức Minh – Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Công Thương;
và TS. Nguyễn Quỳnh Liên – Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Hội thảo diễn ra trong không khí nghiêm túc, khoa học và trách nhiệm, tập trung vào mục tiêu trọng tâm là đánh giá toàn diện thực trạng hệ thống pháp luật quốc gia, đồng thời xác định giải pháp đổi mới cấu trúc pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới.

Hệ thống pháp luật Việt Nam – thành tựu to lớn sau gần 40 năm đổi mới

Các đại biểu đã thống nhất nhận định rằng, sau gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã hình thành được khung cấu trúc pháp luật cơ bản, toàn diện trên nền tảng Hiến pháp và các bộ luật rường cột.

Hiện nay, hệ thống pháp luật với hơn 200 luật và bộ luật, cùng hàng nghìn văn bản quy phạm pháp luật dưới luật, đã bao phủ hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội – từ dân sự, kinh tế, thương mại, tổ chức bộ máy nhà nước, tố tụng, quyền con người, giáo dục, y tế, bảo vệ môi trường… đến các lĩnh vực mới như chuyển đổi số, an ninh mạng, biến đổi khí hậu.

Cấu trúc pháp luật hiện hành đã đáp ứng yêu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội trong tiến trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng vào xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát huy dân chủ.

Những thách thức trong cấu trúc và vận hành pháp luật hiện hành

Bên cạnh thành tựu, các chuyên gia cũng chỉ rõ rằng hệ thống pháp luật hiện nay vẫn tồn tại nhiều tầng nấc, nhiều loại hình văn bản, dẫn tới tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu đồng bộ.

Một số quy tắc xác định thứ bậc hiệu lực giữa các văn bản quy phạm pháp luật còn chưa rõ ràng, nhất là trong việc xác định thứ tự ưu tiên giữa luật chung và luật chuyên ngành, hoặc giữa văn bản hành chính và văn bản của các cơ quan tư pháp tối cao.

Ngoài ra, hệ thống pháp luật chưa bao phủ kịp thời các lĩnh vực mới của thời đại số như kinh tế dữ liệu, trí tuệ nhân tạo, chuỗi khối (blockchain), kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn.

Việc thiết kế một số quy phạm pháp luật còn chưa đạt tính chuẩn mực, thiếu chế tài cụ thể, còn nặng về định hướng hoặc tuyên ngôn, gây khó khăn trong tổ chức thực thi.
Về ngôn ngữ pháp lý, vẫn còn hiện tượng thiếu thống nhất, thiếu chuẩn hóa, dẫn tới cách hiểu và áp dụng khác nhau giữa các cơ quan và chủ thể thực thi pháp luật. Đây là một trong những điểm nghẽn lớn cần sớm được khắc phục để đảm bảo tính minh bạch, khả thi và ổn định của hệ thống pháp luật.

Định hướng tái cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam – Kiến tạo, đồng bộ, hiện đại và lấy con người làm trung tâm

Tại Hội thảo, các đại biểu thống nhất cho rằng việc tái cấu trúc hệ thống pháp luật cần được triển khai theo hướng thể chế hóa đầy đủ chủ trương của Đảng, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, tổ chức, doanh nghiệp làm trung tâm.

Về mặt cấu trúc, cần cân đối lại hệ thống pháp luật, bảo đảm hài hòa giữa pháp luật kinh tế thị trường, Nhà nước pháp quyền và dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Việc đơn giản hóa hệ thống, giảm tầng nấc và loại bỏ các văn bản không cần thiết là yêu cầu cấp bách.

Đồng thời, cần xác định rõ phạm vi điều chỉnh của từng loại văn bản, phân định rành mạch thẩm quyền ban hành, và bổ sung nguyên tắc “luật chuyên ngành ưu tiên luật chung” vào Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, nhằm xử lý xung đột pháp luật một cách nhất quán.

Về kỹ thuật lập pháp, cần mở rộng hợp lý các trường hợp chế tài đặc thù, chú trọng chuẩn hóa ngôn ngữ và cấu trúc quy phạm, bảo đảm tính minh bạch và khả thi.
Đặc biệt, Việt Nam cần tập trung xây dựng “pháp luật kiến tạo” cho các lĩnh vực mới như chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, trí tuệ nhân tạo và dữ liệu mở, tạo hành lang pháp lý tiên phong cho đổi mới sáng tạo.

Một trọng tâm khác được nhấn mạnh là xây dựng và vận hành Cơ sở dữ liệu pháp luật quốc gia mở, đa ngôn ngữ, có khả năng ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong tra cứu, phân tích và hỗ trợ soạn thảo. Đây sẽ là bước đột phá trong hiện đại hóa quản lý nhà nước về pháp luật, giúp pháp luật minh bạch, ổn định, khả thi và dễ tiếp cận.

Hướng tới mục tiêu pháp luật trở thành động lực phát triển quốc gia

Phát biểu kết luận, Thứ trưởng Nguyễn Thanh Tịnh đánh giá cao các ý kiến sâu sắc, mang tính phản biện và gợi mở từ các chuyên gia, đồng thời nhấn mạnh:
“Hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật là nhiệm vụ chiến lược, góp phần củng cố nền tảng thể chế, thúc đẩy cải cách tư pháp và bảo đảm cho mục tiêu phát triển bền vững của đất nước.”

Khi pháp luật trở nên minh bạch, ổn định, khả thi và gần gũi với người dân, nó không chỉ là công cụ quản lý nhà nước, mà còn là động lực nội sinh mạnh mẽ, giải phóng mọi nguồn lực, đưa Việt Nam bứt phá, chuyển mình mạnh mẽ hướng tới năm 2045 – quốc gia phát triển, hùng cường, thịnh vượng và hạnh phúc.
 Quốc Anh - Quỳnh Giang
Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý