Bảo đảm chất lượng trợ giúp pháp lý trong các quy trình tư pháp hình sự

Các Nguyên tắc và Hướng dẫn của Liên hợp quốc về tiếp cận trợ giúp pháp lý trong Hệ thống tư pháp hình sự (sau đây gọi là “Các Nguyên tắc và Hướng dẫn của Liên hợp quốc”) được Đại hội đồng thông qua vào tháng 12/2012 trong nghị quyết 67/187. Đây là văn bản đầu tiên yêu cầu các quốc gia thành viên phải thiết lập một hệ thống trợ giúp pháp lý đáng tin cậy cũng như đảm bảo chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý. Tài liệu này gồm 14 nguyên tắc và 18 hướng dẫn.

Sau khi các Nguyên tắc và Hướng dẫn được thông qua Văn phòng Liên hợp quốc về Ma túy và Tội phạm (UNODC) và Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) đã tiến hành nghiên cứu toàn cầu về trợ giúp pháp lý để thiết lập thông tin cơ sở về khái niệm quyền trợ giúp pháp lý trên toàn thế giới. Các quốc gia thành viên và chuyên gia xác định việc nâng cao chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý là ưu tiên. UNODC đã biên soạn Sổ tay đảm bảo chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý trong các quy trình tư pháp hình sự:
Sổ tay hướng dẫn người hoạch định chính sách và người thực thi chính sách lập kế hoạch và đánh giá để cải thiện chất lượng. Sổ tay này dùng đánh giá chất lượng trợ giúp pháp lý trong lĩnh vực hình sự, không sử dụng cho trợ giúp pháp lý trong lĩnh vực hành chính và dân sự. Sổ tay mô tả việc bảo đảm chất lượng là một quy trình gồm các bước tuần tự, bắt đầu từ việc xác định cách tiếp cận về chất lượng đến thành lập cơ quan chịu trách nhiệm, thông qua các biện pháp cụ thể để đánh giá. Có 5 bước cơ bản, mỗi bước bao gồm các hoạt động góp phần tạo ra đầu ra của chất lượng:
Bước 1. Định nghĩa chất lượng;
Bước 2. Thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý;
Bước 3. Xây dựng đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý có chất lượng;
Bước 4. Đánh giá người thực hiện trợ giúp pháp lý;
Bước 5. Triển khai việc đánh giá.
Bài viết xin giới thiệu 2 bước đầu tiên được Sổ tay gợi ý.
Bước 1. Định nghĩa chất lượng trợ giúp pháp lý
Xác định định nghĩa về chất lượng là bước đầu tiên trong việc thiết lập các biện pháp kiểm soát chất lượng, Sổ tay đưa ra cái nhìn tổng quan về cách hiểu về chất lượng trợ giúp pháp lý và phương pháp đạt chất lượng của các hệ thống trợ giúp pháp lý khác nhau. Sổ tay thảo luận về bốn phương pháp tiếp cận để xác định chất lượng.
Phương pháp thứ nhất: Đánh giá chất lượng công việc do các nhà cung cấp dịch vụ pháp lý thực hiện thông qua bốn yếu tố: đầu vào, cấu trúc, quy trình và kết quả.
- Đầu vào đề cập đến các nguồn lực và kinh nghiệm mà các nhà cung cấp dịch vụ pháp lý sử dụng để thực hiện công việc.
- Cấu trúc đề cập đến việc quản lý đầu vào, ví dụ, hệ thống quản lý vụ việc, lưu giữ hồ sơ, đào tạo nhân viên, giám sát, cố vấn và quy trình khiếu nại.
- Quy trình tập trung vào việc thực hiện nhiệm vụ của các nhà cung cấp dịch vụ pháp lý, bắt dầu giai đoạn đầu tiên thông qua thực hiện vụ việc, các bước tiếp theo lưu trữ hồ sơ, tài liệu.  
- Đánh giá kết quả sẽ xem xét kết quả của quá trình thực hiện trợ giúp pháp lý thông qua đánh giá ngang hàng (những người thực hiện TGPL đánh giá chéo) để đánh giá chất lượng kết quả hoặc phương pháp thống kê để so sánh kết quả trong các trường hợp tương tự.
Phương pháp thứ hai: gồm bốn biện pháp như phương pháp thứ nhất có bổ sung yếu tố kỳ vọng của khách hàng, chi phí tương đối và đánh giá mức độ hài lòng của khách hàng.
Phương pháp thứ ba: xem xét các khía cạnh khác nhau liên quan đến định nghĩa về chất lượng trợ giúp pháp lý: kỹ thuật, đạo đức, chuyên môn và thực tiễn. Khía cạnh kỹ thuật có thể bao gồm các hoạt động như lưu giữ hồ sơ đúng cách, tham dự đúng giờ và tổ chức công việc hiệu quả, hợp lý. Ví dụ, khía cạnh đạo đức xem xét việc ngăn ngừa tham nhũng, chú ý đến lợi ích của khách hàng và giải quyết thành công các xung đột lợi ích. Khía cạnh chuyên môn và thực tiễn đưa ra nhận định theo luật thích hợp, xác định các chiến lược hợp lý, giao tiếp với khách hàng, thu thập đầy đủ thông tin và đảm bảo tuân thủ các hướng dẫn của khách hàng.
Phương pháp thứ tư: kết hợp đánh giá theo quy trình và kết quả nghĩa là cung cấp các dịch vụ trợ giúp pháp lý phù hợp và đạt được kết quả công bằng.
Sổ tay khuyến nghị các quốc gia nên đưa ra khái niệm chất lượng phù hợp với hệ thống pháp luật của mình.
Bước 2. Thành lập cơ quan trợ giúp pháp lý
Sau khi đưa ra định nghĩa về chất lượng trợ giúp pháp lý của quốc gia Sổ tay khuyến nghị xác định ai sẽ chịu trách nhiệm cung cấp trợ giúp pháp lý và cụ thể hơn là cơ quan nào chịu trách nhiệm thiết lập và giám sát chất lượng trợ giúp pháp lý. Nguyên tắc 11 của Nguyên tắc và Hướng dẫn của Liên hợp quốc quy định đó phải là một cơ quan không bị can thiệp bởi chính trị hoặc tư pháp và có đủ thẩm quyền để cung cấp trợ giúp pháp lý, xây dựng chiến lược dài hạn, định hướng phát triển và tính bền vững của trợ giúp pháp lý và báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền.
2.1 Cơ quan trợ giúp pháp lý và hệ thống giám sát
Ở hầu hết các quốc gia, trợ giúp pháp lý do một cơ quan chuyên trách quản lý, trong khi các chức năng giám sát có thể do một cơ quan khác thực hiện. Sổ tay nhấn mạnh yêu cầu phải có một cơ quan thực hiện các chức năng được liệt kê trong Nguyên tắc 11 của Liên hợp quốc liên quan đến chất lượng. Để giám sát, Nguyên tắc và Hướng dẫn của Liên hợp quốc quy định các quốc gia thành viên phải hợp tác với các nhà cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý ngoài nhà nước - bao gồm các tổ chức phi chính phủ - khi thực hiện công tác giám sát chất lượng. Việc có một cơ quan trợ giúp pháp lý và một cơ cấu giám sát là bước đầu tiên cần thiết để có được các dịch vụ trợ giúp pháp lý chất lượng[1].
2.2 Sự độc lập của Cơ quan trợ giúp pháp lý và nhà cung cấp trợ giúp pháp lý.
Theo Nguyên tắc 11 của Hướng dẫn của Liên hợp quốc, cơ quan trợ giúp pháp lý phải không bị can thiệp về mặt chính trị hoặc tư pháp, độc lập trong việc ra quyết định liên quan đến trợ giúp pháp lý và không bị bất kỳ cá nhân hoặc cơ quan nào đe dọa tài chính khi thực hiện chức năng của mình. Sự độc lập của nhà cung cấp trợ giúp pháp lý rất quan trọng đối với chất lượng dịch vụ. Nguyên tắc 16 quy định các chính phủ phải đảm bảo các luật sư thực hiện tất cả nhiệm vụ chuyên môn của họ mà không bị đe dọa, cản trở, quấy rối hoặc can thiệp không đúng mực. Nguyên tắc 12 áp dụng cho cả luật sư và người không phải luật sư[2].
2.3. Áp dụng các biện pháp để thiết lập chất lượng
2.3.1 Nhà cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý
 Các quốc gia nên đưa ra các yêu cầu đối với các nhà cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý để đảm bảo rằng họ có trình độ học vấn, đào tạo, kỹ năng và kinh nghiệm cần thiết. Một cơ quan trợ giúp pháp lý được yêu cầu thiết lập các tiêu chuẩn chất lượng, đào tạo và phát triển kỹ năng, thiết lập các biện pháp để đảm bảo tiếp cận trợ giúp pháp lý và thiết lập cơ cấu tổ chức để tạo điều kiện cho việc cung cấp các dịch vụ có chất lượng[3].
2.3.2. Tiêu chuẩn chất lượng.
Nguyên tắc 16 và 14 của Nguyên tắc và Hướng dẫn của Liên hợp quốc kêu gọi thiết lập các tiêu chuẩn chất lượng cho các dịch vụ trợ giúp pháp lý cho cả luật sư và trợ lý của luật sư.
2.3.3. Đào tạo và phát triển kỹ năng.
Các chương trình đào tạo chuẩn hóa cho luật sư và cán bộ pháp lý bán chuyên có thể là tùy chọn hoặc bắt buộc. Việc đào tạo này có thể do đoàn luật sư hoặc cơ quan trợ giúp pháp lý quốc gia thực hiện.
2.3.4. Các biện pháp để đảm bảo tiếp cận trợ giúp pháp lý ở mọi giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự.
Hướng dẫn số 4, 5 và 6 của Nguyên tắc và Hướng dẫn của Liên hợp quốc nêu rõ các biện pháp để đảm bảo tiếp cận trợ giúp pháp lý ở mọi giai đoạn của tiến trình tư pháp hình sự.
2.3.5. Cơ cấu tổ chức giúp cung cấp các dịch vụ chất lượng.
Biện pháp về cơ cấu tổ chức đề cập đến hệ thống quản lý và vận hành, bao gồm thủ tục lưu giữ hồ sơ, giám sát và chính sách phát triển nhân viên. Các chỉ số chất lượng cụ thể hơn là: thời gian thích hợp và cơ sở vật chất để chuẩn bị bào chữa, tính liên tục của việc đại diện, giám sát và cố vấn, quản lý vụ việc và sử dụng công nghệ, tuyển dụng chuyên gia và lựa chọn luật sư. Cơ cấu tổ chức đạt chuẩn sẽ hứa hẹn nhà cung cấp dịch vụ TGPL thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình và dạt được kết quả[4].
2.4. Dịch vụ trợ giúp pháp lý chuyên biệt.[5]
Việc cung cấp trợ giúp pháp lý cho các nhóm có quyền hoặc nhu cầu riêng biệt chỉ ra các loại chất lượng khác nhau. Nguyên tắc 13 của Nguyên tắc và Hướng dẫn của Liên hợp quốc quy định khi cung cấp trợ giúp pháp lý cho những khách hàng như vậy, cần xây dựng các tiêu chuẩn và đào tạo cụ thể, cũng như các thủ tục thẩm định và công nhận đối với các nhà cung cấp trợ giúp pháp lý. Theo Nguyên tắc 10, cần thực hiện các biện pháp đặc biệt khi cung cấp trợ giúp pháp lý cho phụ nữ, trẻ em và các nhóm có nhu cầu riêng biệt, bao gồm nhưng không giới hạn ở người già, người thiểu số, người khuyết tật, người tâm thần, người nhiễm HIV và các bệnh truyền nhiễm nghiêm trọng khác, người sử dụng ma túy, người bản địa và thổ dân, người không quốc tịch, người xin tị nạn, công dân nước ngoài, người di cư và người lao động di cư, người tị nạn và người di cư trong nước. Các quốc gia cũng nên đảm bảo trợ giúp pháp lý cho những người sống ở vùng nông thôn, vùng xa xôi và các khu vực kinh tế - xã hội khó khăn, và cho những người là thành viên của các nhóm kinh tế - xã hội khó khăn.
Sổ tay nêu bật một số dịch vụ hỗ trợ pháp lý chuyên biệt phổ biến: TGPL cho người khuyết tật và người có vấn đề về sức khỏe tâm thần; TGPL thân thiện với trẻ em; TGPL cho phụ nữ.
2.5 Công cụ thu thập và phân tích dữ liệu[6].
2.5.1 Mục tiêu thu thập dữ liệu.
Mỗi nước đặt ra mục tiêu thu thập dữ liệu thông qua nghiên cứu thường xuyên và thu thập dữ liệu được phân tách theo các yếu tố có liên quan, chẳng hạn như: giới tính, độ tuổi, điều kiện kinh tế xã hội hoặc địa bàn cư trú của người được trợ giúp pháp lý. Họ cũng công bố các phát hiện của nghiên cứu, chia sẻ kinh nghiệm hay trong việc thực hiện trợ giúp pháp lý, giám sát việc thực hiện trợ giúp pháp lý, cung cấp đào tạo liên văn hóa, phù hợp với văn hóa, nhạy cảm với giới tính và phù hợp với độ tuổi cho những người cung cấp trợ giúp pháp lý; và cải thiện sự phối hợp và hợp tác giữa tất cả các cơ quan tư pháp.
2.5.2. Công cụ thu thập dữ liệu.
Có rất nhiều công cụ để đánh giá chất lượng công tác trợ giúp pháp lý. Một số công cụ chính là: khảo sát, thảo luận nhóm và thu thập dữ liệu thông qua hệ thống quản lý điện tử. Các công cụ này có thể được sử dụng cho toàn bộ hệ thống trợ giúp pháp lý[7].
Phan Thị Thu Hà Trưởng phòng Quản lý Trợ giúp pháp lý
Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý

[1] Sổ tay, Chương 3, trang 32-38.
[2] Sổ tay, Chương 3, trang 38-43.
[3] Sổ tay, Chương 3, trang 44-56.
[4] Chương 3, trang 48-56.
Sổ tay thảo luận chi tiết về từng khía cạnh của các biện pháp về cấu trúc và tổ chức, đồng thời cung cấp những kinh nghiệm sâu rộng ở cấp quốc gia.
Sổ tay, Chương 3, trang 57-70.
[5] Sổ tay, Chương 3, trang 57-70
[6] Chương 3 sổ tay 3, trang. 70-74.
[7] Để biết tóm tắt hữu ích về các công cụ, hãy xem Sổ tay, Chương 3, trang 72-74.