NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỂ CHẾ, HIỆN ĐẠI HÓA QUY TRÌNH LẬP PHÁP TRONG KỶ NGUYÊN MỚI

1. Vai trò của pháp luật để phát triển đất nước
 
Trong bối cảnh đất nước hội nhập sâu rộng và bước vào kỷ nguyên chuyển đổi số toàn diện, chất lượng thể chế trở thành xương sống của quản trị quốc gia, là nền tảng bảo đảm sự phát triển bền vững, ổn định xã hội và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Nghị quyết số 66-NQ/TW của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đã nhấn mạnh: hoàn thiện thể chế là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới chính trị, là khâu đột phá trong phát triển đất nước. Do đó, nâng cao chất lượng thể chế là mục tiêu hàng đầu và việc cần làm ngay là phải hiện đại hóa quy trình lập pháp. Vì các văn bản quy phạm pháp luật có chất lượng hay không? Có bảo đảm tính toàn diện, tính hợp lý, hợp hiến và khả thi hay chính là kết quả của các khâu từ quy trình lập pháp. Chỉ có đổi mới quy trình lập pháp, sao cho quy trình này gắn với vận động xã hội và có dự báo khách quan về những biến động xã hội, thể hiện được hơi thở của cuộc sống thì pháp luật mới đươc xây dựng có chất lượng. Vì các quy định của pháp luật thể hiện tính nội dung, còn quy trình lập pháp thể hiện tính hình thức. Đây là hai mặt của một vấn đề, chúng đan xen, lồng ghép và thẩm thấu lẫn nhau và cùng tương hỗ nhau để có một văn bản pháp luật tốt nhất.

Ngày Pháp luật Việt Nam năm nay trong không khí tưng bừng của đổi mới, cải cách thể chế, cải cách hành chính và khẳng định vai trò của pháp luật, không chỉ là dịp để tôn vinh giá trị pháp quyền, mà còn là thời điểm để nhìn lại những bước tiến trong đổi mới tư duy, phương pháp, quy trình và công cụ trong lập pháp. Từ đó nhận diện những thách thức và cơ hội trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện đại - minh bạch, phục vụ Nhân dân và doanh nghiệp từ góc độ hoàn thiện thể chế và đổi mới quy trình lập pháp.

Thể chế pháp luật chính là kết tinh của tư tưởng, chủ trương và chiến lược phát triển quốc gia, quyết định mức độ minh bạch, công bằng và hiệu lực quản trị xã hội, phục vụ nhân dân. Thể chế không ngừng được hoàn thiện, như một cơ thể sống, bắt nguồn từ tư tưởng Hồ Chí Minh và kết quả của các cuộc nỗ lực phấn đấu, hy sinh của dân tộc, sự đấu tranh gian khổ qua mỗi giai đoạn phát triển.Do đó, không dễ để bứt phá nếu không dám hy sinh. Tổng Bí thư Tô Lâm từng khẳng định rằng chỉ có đổi mới tư duy, dám làm những điều chưa có tiền lệ, chúng ta mới có thể đưa đất nước tiến xa hơn. Trong bối cảnh đó, nâng cao chất lượng thể chế không chỉ là hoàn thiện các văn bản pháp luật mà còn là đảm bảo tính nhất quán, khả thi, đồng bộ, đồng thời định hướng cho sự phát triển trong tương lai. Mỗi văn bản pháp luật có vị trí quan trọng trong cả guồng máy vận hành của dân tộc và đời sống người dân, vì vậy, mỗi quy phạm pháp luật, mỗi văn bản pháp luật cần có quá trình hình thành dựa trên trên cơ sở đánh giá tác động toàn diện, phản ánh đúng thực tiễn và tiên liệu những mối quan hệ xã hội mới phát sinh trong kỷ nguyên số, kinh tế tri thức và xã hội thông minh.

Nâng cao chất lượng văn bản pháp luật, hiện đại hóa quy trình lập pháp là hai mặt của một vấn đề, là bước đi tất yếu để quản trị pháp luật quốc gia hiệu quả. Lập pháp hiện nay không còn chỉ là việc soạn thảo và ban hành văn bản, mà đã trở thành một quy trình quản trị pháp luật toàn diện, nó khởi động cho sự vào cuộc của cả xã hội với nguyện vọng từ chính cuộc sống vào một quy trình gồm các khâu đan xen. Quy trình này bao gồm: sự chuẩn bị căn cứ vào dự báo và phân tích chính sách - bước khởi đầu quan trọng; sự hình thành các điều luật được xây dựng dựa trên cơ sở dữ liệu khoa học, mô phỏng tác động kinh tế - xã hội, phân tích chi phí - lợi ích và dự báo rủi ro; sự hoàn thiện các điều luật trên cơ sở quá trình lấy ý kiến rộng rãi từ người dân, doanh nghiệp và chuyên gia. Ngay từ giai đoạn phác thảo, mỗi quy phạm cần được hình thành từ thực tế cuộc sống, đáp ứng xu thế vận động xã hội và phục vụ thực tế, khả thi và thể hiện nguyện vọng, yêu cầu phát triển của đời sống xã hội. Sự kết nối giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp và các đại diện của mọi tầng lớp dân cư qua sự tham gia của các tổ chức xã hội là yếu tố then chốt để bảo đảm văn bản pháp luật được soi rọi từ thực tiễn cuộc sống, kiểm nghiệm qua thực tiễn, bảo đảm được tính khả thi từ khách quan, đồng bộ, nhất quán, tránh chồng chéo, mâu thuẫn của quy phạm trong hệ thống pháp luật.
  1. Vai trò của chuyển đổi số đối với hoàn thiện pháp luật
Chuyển đổi số toàn bộ quy trình soạn thảo, thẩm định và ban hành văn bản quy phạm pháp luật, tận dụng thành quả của tiến bộ công nghệ trí tuệ nhân loại để tiết kiệm chi phí và nguồn lực đang trở thành yêu cầu cấp thiết. Việc khai trương Cổng Pháp luật Quốc gia cùng với tích hợp Nền tảng số pháp luật Việt Nam trong thời gian tới sẽ là minh chứng thực tế rõ rệt cho bước chuyển từ soạn thảo truyền thống sang quy trình số hóa toàn diện. Tất cả dự thảo luật, nghị định, văn bản hướng dẫn đều được quản lý tập trung trên nền tảng số, cho phép rà soát mâu thuẫn pháp luật, theo dõi tiến trình soạn thảo, đồng thời tiếp nhận phản hồi trực tiếp từ người dân và doanh nghiệp. Đây là bước tiến quan trọng, là thành quả của tư tưởng dám nghĩ, dám làm và đột phá trong việc hiện đại hóa công tác lập pháp, tăng cường minh bạch và hiệu lực quản trị pháp luật quốc gia.

Nền tảng số này cung cấp khả năng tra cứu văn bản chỉ trong vài giây, đồng thời tích hợp các công cụ AI pháp luật và chức năng phản ánh – kiến nghị trực tuyến, giúp người dân và doanh nghiệp chủ động tham gia vào quá trình lập pháp. Những công cụ này không chỉ rút ngắn thời gian soạn thảo, kiểm tra mâu thuẫn và dự báo tác động của dự thảo mà còn nâng cao tính chuẩn mực, đồng bộ và khả thi của văn bản pháp luật.

Sự ra đời của Cổng Pháp luật Quốc gia đã mở ra cơ chế phản biện và giám sát xã hội trực tuyến, thể hiện tinh thần “Pháp luật mở, người dân làm chủ thể”. Người dân và doanh nghiệp có thể tham gia góp ý dự thảo, gửi phản ánh, theo dõi tiến trình thẩm định và ban hành văn bản, đồng thời nhận hướng dẫn sử dụng pháp luật trên môi trường số. Đây là bước tiến quan trọng, biến pháp luật không còn là công cụ xa vời mà trở thành công cụ sống động, gần gũi và phục vụ trực tiếp cộng đồng.

Các báo cáo gần đây cũng cho thấy, việc ứng dụng công nghệ số trong lĩnh vực pháp luật đã góp phần nâng thứ hạng Việt Nam trong chỉ số Chính phủ điện tử (EGDI) năm 2024, đồng thời tạo tiền đề để triển khai toàn bộ quy trình lập pháp dựa trên dữ liệu lớn, AI và hệ thống số hóa. Đây chính là minh chứng sống động cho hiệu quả của chuyển đổi số trong quản trị pháp luật, từ tư duy đến công cụ, hướng tới một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện đại, minh bạch và phục vụ nhân dân.

Đổi mới tư duy lập pháp còn gắn liền với việc chuyển từ quan niệm lập pháp theo nhu cầu sang lập pháp dự báo, phòng ngừa. Pháp luật không chỉ phản ứng với sự kiện mà còn định hướng hành vi xã hội, tạo hành lang cho đổi mới sáng tạo và phát triển bền vững. Chính vì vậy, nâng cao năng lực toàn diện của cán bộ soạn thảo, thẩm định, thẩm tra và tư vấn pháp luật trở thành yếu tố sống còn. Họ cần nắm vững kiến thức pháp lý, chuyên môn xã hội, kinh tế, công nghệ số, đồng thời có tư duy đổi mới, phát triển, tiến bộ, chủ động tiếp nhận phản biện, kỹ năng ứng dụng công nghệ và số liệu khoa học trong quá trình lập pháp, có ý thứcvà trách nhiệm với dân và đất nước.

Hiện đại hóa quy trình lập pháp còn không thể thiếu cơ chế giám sát và phản biện xã hội. Thông qua Cổng Pháp luật Quốc gia, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội, chuyên gia, người dân và doanh nghiệp có thể tham gia giám sát, theo dõi tiến trình, đánh giá tác động và đề xuất chỉnh sửa dự thảo trước khi ban hành. Cơ chế này giúp bảo đảm rằng mỗi văn bản pháp luật đều hướng đến phục vụ nhân dân, tăng cường trách nhiệm giải trình, đồng thời giảm thiểu rủi ro mâu thuẫn và bất cập trong thực thi.
  1. Vai trò của công tác phổ biến và giáo dục pháp luật trên nền tảng số
Điều đặc biệt quan trọng trong giai đoạn hiện nay là đưa pháp luật đến với dân qua công tác phổ biến và giáo dục pháp luật trên nền tảng số. Công tác này đang là điểm sáng thể hiện được kết quả sử dụng công nghệ số không chỉ sau khi văn bản pháp luật được ban hành mà ngay từ khởi thảo. Khi các dự thảo và văn bản ban hành đều được cập nhật, tra cứu và hướng dẫn trên Cổng Pháp luật Quốc gia, giúp người dân và doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận, nghiên cứu, góp ý hoàn thiện và có sự chuẩn bị thực thi quyền và nghĩa vụ của mình. Nhờ đó, pháp luật trở thành công cụ kết nối giữa Nhà nước và nhân dân, minh bạch, hiệu lực và khả thi, tạo niềm tin và sự đồng thuận trong xã hội.

Từ những yếu tố chủ yếu đã nêu trên cho thấy, nâng cao chất lượng thể chế và hiện đại hóa quy trình lập pháp không chỉ là đổi mới kỹ thuật soạn thảo, mà là sự đổi mới từ tư duy, công cụ đến cách tiếp cận xã hội, hướng tới một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện đại, minh bạch và phục vụ nhân dân. Chuyển đổi số toàn bộ quy trình lập pháp thông qua nền tảng số pháp luật quốc gia là bước tiến chiến lược, mở ra cơ hội nâng cao hiệu quả quản trị, rút ngắn thời gian soạn thảo, giảm chi phí và tạo điều kiện để pháp luật thực sự là công cụ phục vụ phát triển đất nước trong kỷ nguyên số. Phổ biến và giáo dục pháp luật ngay từ khởi tạo trên nền tảng số và vì thế pháp luật mới thẩm thấu vào cuộc sống và có tính khả thi, đồng hành cùng dân từ khởi đầu.

Ngày Pháp luật Việt Nam không chỉ là dịp vinh danh pháp luật với đời sống, mà còn là thời điểm để nhìn nhận trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị thông qua pháp luật đến từng cán bộ và công dân trong việc hiện thực hóa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện đại, minh bạch, hướng tới lợi ích chung của nhân dân và sự phát triển bền vững của đất nước. Khi mỗi văn bản pháp luật được xây dựng trên nền tảng khoa học công nghệ toàn diện, thẩm thấu và phản ánh nguyện vọng của dân qua phản biện xã hội, thì Nhà nước pháp quyền Việt Nam sẽ thực sự trở thành công cụ quản trị hiệu quả, đồng thời là nền tảng bảo đảm khát vọng phát triển và hạnh phúc của nhân dân trong kỷ nguyên mới./.
Th.s Nguyễn Đức Tưởng
Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý