Ngày 27/10/2025, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2370/QĐ-TTg về việc phê duyệt mục tiêu, nhiệm vụ tăng cường năng lực sản xuất Chương trình truyền hình tiếng dân tộc giai đoạn 2026-2030. Nhiệm vụ này được triển khai thực hiện trên cơ sở Nghị định số 32/2019/NĐ-CP ngày 10 tháng 4 năm 2019 của Chính phủ quy định giao nhiệm vụ, đặt hàng hoặc đấu thầu cung cấp sản phẩm, dịch vụ công, sử dụng ngân sách nhà nước từ nguồn kinh phí chi thường xuyên.
Theo đó, Thủ tướng Chính phủ giao Đài Truyền hình Việt Nam thực hiện nhiệm vụ cung ứng dịch vụ truyền hình tiếng dân tộc phục vụ cộng đồng các dân tộc Việt Nam trong giai đoạn 2026-2030 theo quy đinh của pháp luật về giao nhiệm vụ của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, đặt hàng hoặc đấu thầu cung cấp sản phẩm, dịch vụ công sử dụng ngân sách nhà nước từ nguồn kinh phí chi thường xuyên và các quy định pháp luật liên quan. Các nhiệm vụ được giao cho Đài Truyền hình Việt Nam tập trung tăng cường công tác thông tin tuyên truyền về chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đến với đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần bảo tồn văn hóa dân tộc, nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong thực hiện chính sách dân tộc, phát huy giá trị, bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số, tăng cường đồng thuận xã hội, củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc, nâng cao niềm tin của đồng bào đối với Đảng và Nhà nước.
Chương trình truyền hình tiếng dân tộc được phát sóng 24 giờ/ngày trên kênh VTV5, VTV5 Tây Nam Bộ, VTV5 Tây Nguyên và VTV5 Tây Bắc. Tổng thời lượng chương trình sản xuất mới của 4 kênh tối đa 18 giờ/ngày (bình quân 4,5 giờ sản xuất mới/kênh/ngày). Đài Truyền hình Việt Nam được giao sản xuất các chương trình truyền hình tiếng dân tộc đăng tải trên các nền tảng số như: YouTube, Facebook, Instagram, TikTok,... nhằm cung cấp thêm các phương thức nghe, xem truyền hình để đồng bào dễ dàng tiếp cận thông tin. Sản xuất, phát sóng 29 ngôn ngữ dân tộc gồm: H’Mong, Thái, Dao, Mường, Sán Chí, Ê Đê, Jơ Rai, Ba Na, Xê Đăng, Jẻ Triêng, Raglai, K’Ho, S’Tiêng, Chăm, Khmer, Pa Cô - Vân Kiều, Cơ Tu, Cao Lan (dân tộc Sán Chay), Hà Nhì, H’Rê, Chu Ru, Chơ Ro, M’Nông, Tày, Hoa, Ca Dong, Cor, Mạ và tiếng Việt. Sản xuất, phát sóng chương trình Nông nghiệp - Nông dân - Nông thôn phục vụ đồng bào dân tộc. Thời lượng sản xuất mới trong năm 2026 là 25 phút/ngày, mỗi năm tăng thêm 5 phút sản xuất mới, bảo đảm đến năm 2030 sẽ sản xuất mới 45 phút/ngày.
Ngoài ra, Đài còn có nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho 2.800 lượt người làm truyền hình tiếng dân tộc của các cơ quan Báo và Phát thanh truyền hình địa phương, các đơn vị thuộc Đài Truyền hình Việt Nam và 01 đơn vị bộ đội Biên phòng, trong đó tập huấn trao đổi trong nước 2.400 lượt và tập huấn trao đổi ngoài nước 400 lượt. Đo lường, khảo sát thói quen, nhu cầu xem chương trình truyền hình tiếng dân tộc trên các kênh sóng của VTV5 và trên các nền tảng số.
Về nguồn lực thực hiện các nhiệm vụ, Ngân sách nhà nước được bố trí để thực hiện các nhiệm vụ: Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chuyên môn nghiệp vụ theo nguyên tắc: Ngân sách trung ương chi cho việc tổ chức đào tạo (gồm: chi phí phòng học, tài liệu, ăn, nghỉ của giảng viên và học viên trong thời gian đào tạo, chi phí tổ chức đào tạo khác); các cơ quan Báo và Phát thanh truyền hình địa phương chi cho việc đi lại của học viên được cử tham gia các lớp đào tạo theo chế độ quy định. Kinh phí sản xuất, phát sóng chương trình truyền hình tiếng dân tộc (bao gồm chương trình Nông nghiệp - Nông dân - Nông thôn ở vùng đồng bào dân tộc; chương trình truyền hình tiếng dân tộc đăng tải trên các nền tảng số); đo lường, khảo sát thói quen, nhu cầu xem chương trình truyền hình tiếng dân tộc trên các kênh sóng của VTV5 và trên các nền tảng số theo kế hoạch hàng năm được Tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam phê duyệt.
Đài Truyền hình Việt Nam chịu trách nhiệm bố trí kinh phí từ nguồn thu hợp pháp của Đài để thực hiện các nhiệm vụ khác ngoài nhiệm vụ đã được Ngân sách Nhà nước bố trí kinh phí, đồng thời phải đảm bảo các điều kiện về sắp xếp cơ sở vật chất, đảm bảo việc sản xuất chương trình truyền hình và sản phẩm nội dung số về dân tộc, tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong lĩnh vực truyền hình, đáp ứng yêu cầu về nhiệm vụ tuyên truyền công tác dân tộc.