Hòa giải ở cơ sở - Dưới góc độ từ Triết lý “Hòa” trong Phật giáo

1. Hòa giải ở cơ sở và khởi nguồn từ Triết lý “Hòa”
Theo từ điển Tiếng Việt, về chữ “Hòa” cho thấy có nghĩa gốc là sự hòa hợp, hòa bình, yên ổn là một trong những chữ có sức mạnh, sức hấp dẫn nhất[1]. Về tính từ, “Hòa” còn có nghĩa là không bên nào thắng, không bên nào thua; ở trạng thái không có mâu thuẫn, không có xung đột trong quan hệ với nhau, “làm hòa với nhau”[2]. Trong xã hội, hai chữ “Hòa bình” và yêu chuộng hòa bình đã được nêu lên như một khẩu hiệu đẹp đẽ nhất. “Gia hòa vạn sự hưng” - Một gia đình hòa thuận, êm ấm thì mọi việc sẽ thịnh vượng, thành công; một thôn xóm quanh năm đoàn kết, nghĩa tình thì an cư lạc nghiệp, giàu đẹp, văn minh; một dân tộc “hòa hiếu”, một thế giới hòa bình thì thịnh trị, hùng cường - đó luôn là ước mơ, khát vọng thiết tha của con người từ bao đời nay.

Tìm hiểu Triết lý "Hòa" trong Phật giáo, đó là sự hòa hợp toàn diện giữa con người với chính mình (nội tâm), với xã hội và với thiên nhiên, hướng tới sự an lạc, bình yên và giác ngộ, thông qua việc thực hành Lục Hòa (sáu nguyên tắc hòa hợp), nhẫn nhục, từ bi, và sống theo lẽ Duyên khởi, vô thường, giúp thoát khỏi khổ đau, xây dựng một cuộc đời ý nghĩa, phụng sự chúng sinh. Lục Hòa (hay Lục Hòa Kính) là sáu nguyên tắc cư xử hòa hợp từ vật chất đến tinh thần, từ lời nói đến việc làm. Hòa ở đây là mục đích tiến tới sự cao đẹp, đến toàn diện toàn mỹ[3], bao gồm: Thân hòa đồng trụ (cùng sống hòa thuận); Khẩu hòa vô tranh (lời nói hòa ái); Ý hòa đồng duyệt (tâm ý vui vẻ); Kiến hòa đồng giải (quan điểm thông hiểu); Giới hòa đồng tu (cùng giữ giới) và Lợi hòa đồng quân (chia sẻ lợi ích). Đây là phương pháp giúp cá nhân và tập thể sống an vui, đoàn kết, chuyển hóa mâu thuẫn và hướng đến giải thoát. Hòa ở đây với mục đích tích cực tiến tới sự cao đẹp, tới toàn diện toàn mỹ, chứ không phải hoà một cách thụ động, ai nói phải cũng gật, nói quấy cũng ừ. Hòa mang thông điệp “tự lợi và lợi tha” không so đo hơn thua, thắng bại[4].

Tìm hiểu nghĩa gốc của “Hòa” là sự điều tiết, nhưng nội hàm của chữ Hòa trong văn hoá truyền thống vô cùng phong phú, giữa người với người, giữa quốc gia với quốc gia đều phải coi trọng chữ Hòa, giữa con người và tự nhiên cũng cần coi trọng chữ Hòa. Hòa đối với một người mà nói, chính là lòng dạ khoáng đạt, nhu cương thích hợp; đối với một quần thể mà nói chính là chung sống an ổn lẫn nhau[5].

Chúng ta thường nghe nói “Dĩ hòa vi quý”, bốn chữ ấy tuy giản dị nhưng lại có công dụng lợi ích vô cùng - có nghĩa là lấy sự hòa thuận, hòa khí, hòa hợp làm điều quan trọng và cao quý nhất. Nó khuyên nhủ mọi người nên sống nhường nhịn, khéo léo ứng xử, tránh va chạm, xung đột để giữ gìn mối quan hệ tốt đẹp, tạo sự bình yên và ổn định trong giao tiếp cũng như cuộc sống. Dĩ hòa vi quý áp dụng cho mọi mối quan hệ trong xã hội, từ gia đình, dòng họ đến cộng đồng, đến toàn thể xã hội. Hòa giải, trong đó có hòa giải ở cơ sở chính là hiện thân của dĩ hòa vi quý trong thực tế. Khi áp dụng thành công hòa giải, mâu thuẫn sẽ được giải quyết, từ đó duy trì sự hòa thuận, êm ấm trong tất cả các mối quan hệ.

Hòa giải ở cơ sở được quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013 là “việc hòa giải viên hướng dẫn, giúp đỡ các bên đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật theo quy định của Luật này”. Như vậy, có thể thấy hòa giải và dĩ hòa vi quý đều hướng đến mục tiêu giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp một cách êm xuôi, tránh va chạm, xung đột để duy trì sự hòa bình, ổn định trong các mối quan hệ. Tìm hiểu về công tác hòa giải ở cơ sở ở Việt Nam cho thấy đây là một truyền thống văn hóa pháp lý sâu sắc, bắt nguồn từ triết lý “Hòa” (hòa hợp, hòa giải), đề cao sự đoàn kết, nhường nhịn, lấy tình làng nghĩa xóm làm nền tảng để giải quyết mâu thuẫn. Hòa giải ở cơ sở giúp hóa giải xung đột: Giúp chuyển hóa mâu thuẫn, bất hòa trong gia đình, dòng họ, cộng đồng và xã hội; xây dựng một tập thể vững mạnh qua sự đoàn kết, chia sẻ lẫn nhau.

Từ truyền thống xa xưa của dân tộc, hòa giải không chỉ là một thủ tục pháp lý mà còn là nét đẹp văn hóa, phản ánh tinh thần cộng đồng "tối lửa tắt đèn có nhau", "bán anh em xa mua láng giềng gần" của người Việt. Hòa giải ở cơ sở tồn tại trong các thôn, xóm của Việt Nam từ rất lâu đời, đó là nét đẹp truyền thống văn hóa pháp lý trường tồn của dân tộc. Hòa giải ở cơ sở có vai trò ý nghĩa to lớn về mặt xã hội, văn hóa và pháp lý thể hiện ở các khía cạnh như: (i) Giải quyết mâu thuẫn sớm: Ngăn chặn mâu thuẫn, căng thẳng, xung đột leo thang, giữ gìn tình làng nghĩa xóm, ổn định trật tự xã hội; (ii) Gìn giữ bản sắc văn hóa: Thể hiện sự nhân văn, bao dung, giúp mọi người hiểu và thông cảm cho nhau, phù hợp với đạo lý, truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam; (iii) Góp phần nâng cao hiệu quả công tác thi hành pháp luật:  Mỗi vụ việc xảy ra ở cơ sở, nếu được hoà giải, giải quyết kịp thời sẽ không phát triển thành mâu thuẫn, tranh chấp lớn, việc đơn giản không trở nên phức tạp, không gây sự  âm ỉ, bức xúc trong dư luận và cộng đồng dân cư, hạn chế đơn thư khiếu nại, tố cáo tràn lan, vượt cấp, kéo dài từ đó các mâu thuẫn, tranh chấp được giải quyết triệt để, ngăn ngừa phát sinh tội phạm, giữ gìn tình đoàn kết trong nội bộ nhân dân, ổn định trật tự an toàn xã hội. Điều này góp phần tiết kiệm được thời gian, công sức, tiền bạc của chính các bên tranh chấp, cũng như của các cơ quan nhà nước như chính quyền địa phương, cơ quan tư pháp...

Theo Thống kê của Bộ Tư pháp - cơ quan quản lý nhà nước về công tác hòa giải ở cơ sở, năm 2025, cả nước tiếp nhận hơn 65.004 vụ việc, trong đó hòa giải thành hơn 53.248 vụ, việc, tỷ lệ hòa giải thành đạt hơn 81,12%. Có được kết quả này, trước hết là nhờ sự đóng góp của đội ngũ hòa giải viên đã không quản ngại khó khăn, vất vả mà tận tâm, nhiệt tình trong việc hàn gắn những rạn nứt về tình cảm, vun đắp, thắp sáng tình yêu thương, sự hòa thuận trong từng gia đình, làng xóm, cộng động dân cư. Hàng năm, đội ngũ hòa giải viên ở cơ sở trên cả nước đã phát hiện sớm, hòa giải kịp thời hàng chục nghìn mâu thuẫn, tranh chấp trong cộng đồng, ngăn ngừa tranh chấp dân sự chuyển thành vi phạm pháp luật, phạm tội hình sự. Việc kịp thời hòa giải các mâu thuẫn, tranh chấp, bất đồng trong cộng đồng dân cư đã khiến cho các mâu thuẫn, tranh chấp đó được giải quyết triệt để, không phát sinh thành “điểm nóng” hoặc thành tội phạm nghiêm trọng, góp phần rất lớn vào ổn định trật tự, an toàn xã hội, giải tỏa những bức xúc, bất đồng trong nhân dân, từ đó mang lại cuộc sống yên bình, hạnh phúc cho người dân.

Như vậy, có thể khẳng định “Hòa giải ở cơ sở” chính là một trong những hình thức cụ thể, biểu hiện sâu sắc của Triết lý “Hòa” trong Đạo Phật được hiện diện sinh động ở cuộc sống đời thường của mỗi người dân. Đó không phải là thứ xa vời, mà là một phương pháp thực hành để sống tốt hơn; tạo dựng môi trường xã hội hòa hợp, nhân ái, tốt đẹp. Hòa giải ở cơ sở chính là dựa trên các giá trị văn hóa, pháp lý, triết lý về sự hòa hợp, đồng cảm, tôn trọng lẫn nhau, tạo sự đồng thuận xã hội, xây dựng một cộng đồng vững mạnh, một xã hội văn minh, tiến bộ qua sự Đoàn kết, Thấu hiểu và Yêu thương lẫn nhau.

2. Hòa giải ở cơ sở trong xã hội hiện đại và đổi mới

Trong xã hội hiện đại ngày nay, các mâu thuẫn âm ỉ thường xoay quanh sự khác biệt thế hệ (tư duy, lối sống), bất đồng quan điểm (giao tiếp kém), xung đột lợi ích, và sự căng thẳng giữa các nhóm xã hội, đôi khi ngầm hiểu hoặc bùng nổ, phản ánh tính tất yếu của xung đột xã hội do sự đối lập về giá trị, niềm tin và cạnh tranh trong một xã hội phức tạp, đa chiều. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến phát sinh các mâu thuẫn, tranh chấp như phân tầng xã hội; bất bình đẳng xã hội vượt quá giới hạn nhất định có thể gây nên những bất ổn xã hội; quá trình đô thị hóa nhanh với tình trạng tranh chấp về đất đai ngày càng nhiều, ô nhiễm môi trường sống; mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, xã hội, đạo đức ngày càng bộc lộ rõ… đòi hỏi cần có các phương thức thích hợp để giải quyết ổn thỏa. Trong bối cảnh đó, vì sao chữ “Hòa” càng trở nên khó thực hiện? Mặc dù có thể trong phạm vi nhỏ hẹp như trong một gia đình, trong một dòng họ, một tập thể? Phải chăng người ta chưa đặt nó vào đúng căn nguyên của mình, dựa trên một nền tảng vững chắc, toàn diện. Thực tiễn đã chứng minh hòa giải ở cơ sở góp phần khôi phục, duy trì, củng cố tình đoàn kết trong nội bộ nhân dân, phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật, tội phạm, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội khi giải quyết tận “gốc” của vấn đề. Giải quyết tranh chấp thông qua hòa giải ở cơ sở, quan hệ tốt đẹp của các bên được duy trì. Kết quả hòa giải ở cơ sở sẽ không có bên thắng, bên thua, mà cả bên đều thắng, đều tự nguyện nhượng bộ một phần lợi của mình để đạt được thỏa thuận hòa giải thành. Trong số các phương thức giải quyết xung đột xã hội dưới dạng các xích mích, mâu thuẫn nhỏ thì hòa giải ở cơ sở được coi là tối ưu và thường được các bên xung đột chấp nhận. Thông qua công tác hòa giải ở cơ sở, những tranh chấp, bất đồng phát sinh tại cơ sở đã được giải quyết kịp thời, dứt điểm; không để tranh chấp kéo dài, hạn chế đáng kể tình trạng khiếu kiện ra cơ quan nhà nước, khiếu kiện vượt cấp; góp phần xây dựng khối đoàn kết cộng đồng bền vững, giữ gìn, vun đắp tình làng, nghĩa xóm, xây dựng cơ sở, khu dân cư ngày càng ấm no, yên bình, hạnh phúc.

Hòa giải ở cơ sở sẽ tiếp tục được duy trì, phát triển, bổ sung và đổi mới nâng lên một tầm cao mới, đây là xu thế, là nhu cầu khách quan, bức thiết của đời sống. Kết quả hòa giải ở cơ sở sẽ không có bên thắng, bên thua, mà cả hai bên đều thắng, đều tự nguyện nhượng bộ một phần thắng lợi ích của mình để đạt được thỏa thuận hòa giải thành. Hòa giải, trong đó có hòa giải ở cơ sở cần được coi là phương thức ưu tiên khi giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn; điều này hoàn toàn phù hợp với tinh thần và nội dung Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới đã chỉ rõ: “Kết hợp các phương thức phi tố tụng tư pháp với các phương thức tố tụng tư pháp; có giải pháp khuyến khích, phát triển các thiết chế giải quyết tranh chấp ngoài toà án…”. Thời gian tới, quan điểm chủ trương, chính sách về hòa giải ở cơ sở cần phải được điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung, đổi mới bảo đảm phù hợp với tình hình, đáp ứng nhu cầu, đòi hỏi của thực tế. Hòa giải ở cơ sở sẽ tiếp tục được duy trì, phát triển, bổ sung và đổi mới nâng lên một tầm cao mới, đây là xu thế, là nhu cầu khách quan, bức thiết của đời sống.

Bởi cho dù kinh tế, xã hội phát triển đến mức nào thì hòa giải ở cơ sở với hình ảnh là nét truyền thống văn hóa pháp lý của dân tộc cần tiếp tục được bảo tồn trong đời sống cộng đồng. Hòa giải, trong đó có hòa giải ở cơ sở cần được coi là phương thức ưu tiên khi giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn. Hòa giải ở cơ sở cần được thực hiện với sự kế thừa truyền thống pháp lý tốt đẹp của dân tộc trong điều kiện mới. Thực tiễn giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn hiện nay cho thấy, một xã hội phát triển bền vững thì nhất thiết phải có sự tham gia và tác động cùng chiều của nhiều loại thể chế khác nhau. Phương thức giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn và xung đột trong xã hội thông qua con đường hòa giải có chiều hướng trở thành xu thế của thời đại.

Tại Nghị quyết số 105/2025/UBTVQH15 ban hành Chương trình lập pháp năm 2026 đã đưa dự án Luật Hòa giải ở cơ sở (sửa đổi) trình Quốc hội xem xét, thông qua tại Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XVI (tháng 10/2026). Bộ Tư pháp hiện đang nghiên cứu xây dựng Luật Hoà giải ở cơ sở (sửa đổi) nhằm thể chế hóa đầy đủ, kịp thời các chủ trương, đường lối của Đảng về phát huy dân chủ, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam, khuyến khích, phát triển các thiết chế giải quyết tranh chấp ngoài toà án, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền; kịp thời tháo gỡ những vướng mắc, bất cập trong các quy định của Luật Hoà giải ở cơ sở, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, toàn diện và thống nhất nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động và công tác quản lý nước về hoà giải ở cơ sở.

Luật Hòa giải ở cơ sở (sửa đổi) tập trung nghiên cứu nhiều chính sách, giải pháp mới nhằm điều chỉnh phạm vi hòa giải ở cơ sở theo hướng mở rộng phạm vi so với quy định pháp luật hiện hành. Theo đó, việc hoà giải có thể được tiến hành đối với các đối tượng khác nhau và áp dụng đối với tất cả các mâu thuẫn, tranh chấp ở cơ sở khi được các bên lựa chọn, trừ một số trường hợp do pháp luật quy định. Ngoài ra, Luật nghiên cứu các giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; xác định cụ thể quyền và nghĩa vụ của người tham gia công tác hòa giải ở cơ sở; bổ sung chế độ đãi ngộ đội ngũ hoà giải viên cũng như quy định giá trị pháp lý cũng như cách thức công nhận giá trị pháp lý của thỏa thuận hòa giải thành; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và đơn giản hóa thủ tục hành chính trong công tác hòa giải ở cơ sở… Những chủ trương, chính sách này nhằm tiếp tục thể chế hoá chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về khuyến khích, phát triển các thiết chế giải quyết tranh chấp ngoài toà án, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, toàn diện và thống nhất nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động hoà giải ở cơ sở, công tác quản lý nhà nước về hoà giải ở cơ sở, góp phần thiết thực vào phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Từ đó, giúp phát huy ý nghĩa sâu sắc của chữ “Hòa” trong cuộc sống, công tác hòa giải ở cơ sở tiếp tục khẳng định là tài sản quý báu, truyền thống văn hóa pháp lý lâu đời cần được kế thừa, giữ gìn và phát huy, không chỉ giữ vững bản sắc và giá trị của Triết lý “Hòa” mà còn phải đổi mới để phù hợp với bối cảnh hội nhập, hướng tới sự hiệu quả, bền vững trong bảo vệ công lý và văn hóa dân tộc./.
 
Đinh Thị Ánh Hồng
Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý
 
 

[1] https://hvdic.thivien.net/hv/ho%C3%A0.
[2] https://vi.wiktionary.org/wiki/ho%C3%A0.
[3] https://phatgiao.org.vn/loi-day-cua-duc-phat-ve-luc-hoa--6-phep-hoa-kinh-d34391.html.
[4] https://giadinhphattu.vn/tu-hoc-huan-luyen/luc-hoa-sau-phep-hoa-kinh-bac-so-thien.html.
[5] https://trithucvn2.net/van-hoa/vi-sao-nguoi-xua-coi-trong-chu-hoa.html.