Kết quả rà soát các chủ trương, đường lối của Đảng, văn bản quy phạm pháp luật, điều ước quốc tế có liên quan đến dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý số 11/2017/QH14

Thực hiện quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025, Bộ Tư pháp đã tiến hành rà soát toàn diện, có hệ thống các văn bản liên quan, qua đó xác định rõ các nội dung cần phải sửa đổi, bổ sung của Luật Trợ giúp pháp lý số 11/2017/QH14 nhằm bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật và đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới. Quá trình rà soát được thực hiện theo từng nhóm nội dung cụ thể của Luật, bảo đảm đối chiếu đầy đủ giữa quy định của Luật Trợ giúp pháp lý hiện hành với các quy định pháp luật có liên quan và các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Theo đó, tổng cộng 119 văn bản, quy định đã được xác định có nội dung liên quan trực tiếp đến các quy định và phạm vi điều chỉnh của Luật, bao gồm 16 văn bản của Đảng; 51 Luật, Nghị quyết, Pháp lệnh; 07 Nghị định của Chính phủ; 20 Thông tư, Thông tư liên tịch và 25 Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Trong đó, về sự phù hợp với các chủ trương, đường lối của Đảng, tính thống nhất đối với hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và tính tương thích với các điều ước quốc tế mà nước Việt Nam là thành viên được thể hiện như sau:

Về sự phù hợp của dự thảo văn bản với chủ trương, đường lối của Đảng có liên quan cần thể chế hóa. Kết quả rà soát cho thấy, nhiều chủ trương quan trọng của Đảng đã được thể chế trong quy định của Luật Trợ giúp pháp lý số 11/2017/QH14. Trong đó, nhiều chủ trương, đường lối được xác định trong các giai đoạn trước đây vẫn giữ nguyên giá trị định hướng và được bảo đảm thể chế đầy đủ trong nội dung của Luật Trợ giúp pháp lý như Thông báo số 485/CV-VPTW ngày 31/5/1995 của Văn phòng Trung ương Đảng và Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư nhấn mạnh yêu cầu Nhà nước hình thành hệ thống tư vấn, trợ giúp pháp luật miễn phí dành cho người nghèo, đối tượng chính sách và đồng bào dân tộc thiểu số.

Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nhiều chủ trương mới của Đảng đã được ban hành, đặt ra các yêu cầu cao hơn, toàn diện hơn đối với công tác trợ giúp pháp lý. Cụ thể, nhiều chủ trương, đường lối của Đảng mang tính nền tảng như Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục Nghị quyết số 49-NQ/TW; Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 17/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương tại Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị và Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đồi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đã đặt ra yêu cầu tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền cấp xã, đổi mới toàn diện việc cung cấp dịch vụ công không phụ thuộc địa giới hành chính, nâng cao chất lượng dịch vụ công trực tuyến, dịch vụ số cho người dân, trong đó bao gồm hoạt động trợ giúp pháp lý.

Bên cạnh đó, một số chủ trương, đường lối của Đảng mang tính định hướng trực tiếp hoạt động trợ giúp pháp lý được ban hành trong thời gian gần đây cũng đã đặt ra những yêu cầu mới cần tiếp tục được thể chế hóa đầy đủ trongluật. Các nghị quyết quan trọng như Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII về việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới nêu rõ: “Xây dựng mạng lưới, nâng cao năng lực của hệ thống trợ giúp pháp lý để người dân dễ tiếp cận pháp luật”; Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới đặt ra yêu cầu thúc đẩy phát triển mạnh mẽ hệ thống dịch vụ trợ giúp pháp lý và Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cũng xác định nhiệm vụ kịp thời xây dựng, hoàn thiện pháp luật và cơ chế, chính sách đột phá để khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển.

Về sự thống nhất đối với hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Quá trình rà soát đã xác định có 78 văn bản, trong đó bao gồm: 01 Hiến pháp; 48 Bộ luật, Luật; 01 Pháp lệnh; 01 Nghị quyết của Quốc hội, 07 Nghị định; 20 Thông tư, thông tư liên tịch có nội dung liên quan đến các quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý. Trong đó, nhiều luật quan trọng trong hệ thống pháp luật, đặc biệt là các bộ luật tố tụng, các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, các luật liên quan đến nhóm đối tượng yếu thế như trẻ em, người khuyết tật, người cao tuổi, người dân tộc thiểu số là các văn bản có nhiều nội dung liên quan và có sự tác động trực tiếp đến nội dung của Luật Trợ giúp pháp lý. Các quy định về điều kiện bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, cấp, cấp lại thẻ trợ giúp viên pháp lý và thẻ cộng tác viên trợ giúp pháp lý; miễn nhiệm, thu hồi thẻ trợ giúp viên pháp lý và thẻ cộng tác viên trợ giúp pháp lý, vai trò của cộng tác viên trợ giúp pháp lý khi tham gia thực hiện trợ giúp pháp lý cũng đã được rà soát, qua đó xác định nội dung cần được sửa đổi, bổ sung để đảm bảo thống nhất, phù hợp với quy định của các luật và bộ luật tố tụng.

Về sự tương thích với các điều ước quốc tế có liên quan mà nước Việt Nam là thành viên. Qua rà soát đã xác định có 18 hiệp định tương trợ tư pháp song phương có quy định về trợ giúp pháp lý. Bên cạnh đó, có 07  điều ước quốc tế liên quan đến nội dung của Luật Trợ giúp pháp lý là: Công ước Liên hợp quốc về chống tội phạm mạng; Công ước Chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (UNTOC); Công ước Liên hợp quốc chống tham nhũng (UNCAC); Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị năm 1966 (ICCPR); Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 (Công ước CRC); Công ước về quyền của người khuyết tật năm 2006 (CRPD); Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979 (CEDAW). Theo đó, các nội dung của Luật Trợ giúp pháp lý không có nội dung trái với nội dung trong các điều ước quốc tế nêu trên. Tuy nhiên, để bảo đảm thực thi đầy đủ và hiệu quả các cam kết này, việc sửa đổi Luật là cần thiết nhằm cụ thể hóa các nghĩa vụ quốc tế, đồng thời phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội và hệ thống pháp luật quốc gia.
 
Như vậy, qua việc rà soát, đánh giá từng điều khoản cụ thể trong dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý với các chủ trương, đường lối của Đảng, các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành và điều ước quốc tế có liên quan cho thấy về cơ bản nội dung dự thảo Luật phù hợp với các văn bản của Đảng, Hiến pháp và các quy định của pháp luật, điều ước quốc tế có liên quan. Đối với một số nội dung quy định trong dự thảo Luật mang tính chất đặc thù, qua rà soát đều có các kiến nghị cụ thể để phục vụ việc xây dựng dự thảo Luật./.
Nguyễn Quốc Anh
Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý, Bộ Tư pháp