1. Vai trò của công tác trợ giúp pháp lý đối với người dân tộc thiểu số
TGPL là chính sách nhân văn của Đảng và Nhà nước ta, là một bộ phận cấu thành trong tổng thể giải pháp xóa đói, giảm nghèo, gắn phát triển kinh tế với bảo đảm công bằng xã hội. Hệ thống TGPL hình thành phát triển từ năm 1997 và ngày càng lớn mạnh về số lượng các tổ chức thực hiện TGPL, người thực hiện TGPL chuyên nghiệp, chất lượng TGPL ngày một nâng cao thông qua cơ chế quản lý của cơ quan quản lý nhà nước về TGPL (Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp) và sự trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, tích lũy kinh nghiệm của người thực hiện TGPL. Đối với người dân tộc thiểu số, do đặc thù chủ yếu sinh sống ở vùng sâu, vùng xa, hiểu biết pháp luật hạn chế, có thói quen sử dụng phong tục, tập quán thì TGPL càng có ý nghĩa quan trọng. Cụ thể:
Thứ nhất, TGPL giúp nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức công dân, phòng ngừa vi phạm. Trợ giúp pháp có vai trò quan trọng trong việc nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, giảm thiểu tranh chấp và vi phạm pháp luật ở vùng dân tộc thiểu số, đặc biệt đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới - nơi trình độ dân trí còn thấp và điều kiện tiếp cận thông tin hạn chế, thường gặp khó khăn trong việc tiếp cận các quyền và nghĩa vụ pháp lý cơ bản. TGPL góp phần giúp người dân hiểu được hành vi nào hợp pháp, hành vi nào có thể bị xử lý, từ đó phòng ngừa hành vi vi phạm pháp luật.
TGPL tại vùng dân tộc thiểu số không chỉ cung cấp tri thức pháp luật mà còn hướng đến xây dựng “năng lực pháp lý tự chủ” cho cộng đồng. Đặc biệt, tại các vùng thường xuyên xảy ra tranh chấp đất đai, hôn nhân không đăng ký kết hôn, bạo lực gia đình, như các tỉnh ở Tây Nguyên hay miền núi phía Bắc, các Trung tâm TGPL nhà nước và tổ chức tham gia TGPL đã triển khai thành công các đợt truyền thông tại cơ sở, giúp người dân hình thành khả năng nhận diện vi phạm pháp luật và ứng xử phù hợp.
Thứ hai, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, đặc biệt cho nhóm yếu thế. TGPL không chỉ là dịch vụ pháp lý miễn phí mà còn là công cụ bảo vệ quyền con người và bảo vệ pháp lý hiệu quả nhất cho nhóm yếu thế trong xã hội. Trong bối cảnh người dân tộc thiểu số gặp nhiều rào cản về ngôn ngữ, địa lý, pháp lý và tài chính, thì TGPL đóng vai trò như “cầu nối công lý” giữa pháp luật với đời sống.
Thứ ba, đảm bảo việc thực hiện dân chủ, công bằng xã hội từ cơ sở. TGPL là một biểu hiện sinh động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nơi pháp luật được thượng tôn, quyền công dân được bảo vệ và cơ hội tiếp cận công lý được bảo đảm bình đẳng. Ở vùng dân tộc thiểu số, TGPL giúp người dân tham gia các thiết chế dân chủ ở cơ sở như hòa giải, tố tụng, khiếu nại, tố cáo. Qua đó, TGPL góp phần hiện thực hóa quyền dân sự, chính trị và phát triển của người DTTS được quy định trong Hiến pháp 2013: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”; đồng thời bảo đảm quyền tiếp cận công lý của công dân.
2. Kết quả công tác trợ giúp pháp lý cho người dân tộc thiểu số
2.1. Về công tác xây dựng thể chế về TGPL cho người dân tộc thiểu số
Công tác hoàn thiện thể chế về TGPL luôn được quan tâm. Trên cơ sở quy định của Luật TGPL năm 2017, đến nay đã có 03 Nghị định, 01 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 16 Thông tư của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và 02 Thông tư liên tịch quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật. Trong quá trình hoàn thiện thể chế, công tác TGPL cho người dân tộc thiểu số luôn được quan tâm. Phạm vi người dân tộc thiểu số được TGPL đã được mở rộng khi xây dựng Luật TGPL năm 2017. Theo quy định của Luật TGPL năm 2006 và các văn bản có liên quan thì người dân tộc thiểu số thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thuộc đối tượng được TGPL. Luật TGPL năm 2017 đã sửa đổi “thường trú” bằng “cư trú” ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nhằm mở rộng và tạo điều kiện cho người dân tộc thiểu số có thêm cơ hội tiếp cận và sử dụng dịch vụ TGPL miễn phí của nhà nước.
Thủ tục yêu cầu TGPL đối với người dân nói chung, người dân tộc thiểu số nói riêng được đơn giản hóa, chỉ cần có đơn yêu cầu TGPL, giấy tờ chứng minh thuộc diện TGPL, những giấy tờ liên quan đến vụ việc cần TGPL (nếu có). Cách thức nộp hồ sơ cũng tạo thuận lợi cho người dân: có thể lựa chọn nộp trực tiếp, trực tuyến hoặc qua bưu chính.
2.2. Công tác truyền thông về trợ giúp pháp lý
Để triển khai Luật TGPL năm 2017, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho đối tượng thụ hưởng, trong đó có người dân tộc thiểu số, công tác truyền thông về Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành đã được Bộ Tư pháp và các địa phương đẩy mạnh bằng nhiều hình thức, phù hợp với điều kiện thực tế của trung ương và địa phương. Bộ Tư pháp đã tổ chức nhiều Hội nghị tập huấn về Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành; nhiều phóng sự, bài viết trên các phương tiện thông tin đại chúng, góp phần nâng cao nhận thức của xã hội, của các Bộ, ngành và các địa phương về lĩnh vực TGPL, bảo đảm cho người dân, trong đó có người dân tộc thiểu số được tiếp cận, thụ hưởng dịch vụ TGPL miễn phí của Nhà nước. Các nội dung truyền thông (báo hình, báo viết, báo nói, tờ gấp…) đều được chú trọng giới thiệu nội dung về TGPL cho người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý đã tổ chức các tập huấn, hội nghị truyền thông về cơ sở nhằm nâng cao nhận thức trợ giúp pháp lý điểm vùng dân tộc thiểu số và miền núi tại các tỉnh theo địa bàn quy định; xây dựng các chương trình về trợ giúp pháp lý phát sóng trên các Đài truyền hình hoặc Đài phát thanh ở Trung ương và biên soạn và phát hành tài liệu truyền thông về trợ giúp pháp lý trên các địa bàn theo quy định.
Ngoài ra, Cục cũng đã chủ động cung cấp cho người dân số điện thoại đường dây nóng của Cục trên Cổng Pháp luật Quốc gia, trang thông tin Trợ giúp pháp lý, trong các phóng sự về TGPL cho người dân tộc thiểu số, các thông điệp về TGPL, tờ gấp pháp luật. Cục phối hợp với Đài truyền hình Việt Nam xây dựng một số chương trình, phóng sự, diễn án về TGPL cho người dân tộc thiểu số: tọa đàm Chuyện từ chính sách phát sóng trên VTV5, chương trình Quốc hội với cử tri… Hàng năm, Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật và TGPL nhận được hàng trăm cuộc gọi của người dân trong đó có người dân tộc thiểu số khi họ gặp vướng mắc về pháp luật. Hầu hết các địa phương có huyện nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn nơi có người dân tộc thiểu số cư trú đã thiết lập đường dây nóng về TGPL, đã có nhiều lượt người dân gọi đến để phản ánh những khó khăn, vướng mắc về pháp luật phát sinh trong cuộc sống, tạo điều kiện thuận lợi cho “nhóm đối tượng yếu thế” tiếp cận pháp luật, tạo công bằng cho người dân khi thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật và tiết kiệm thời gian, công sức.
2.3 Về thực hiện vụ việc TGPL
Thực hiện chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về TGPL cho người yếu thế nói chung và TGPL cho người dân tộc thiểu số nói riêng, các tổ chức thực hiện TGPL, đặc biệt là các Trung tâm TGPL nhà nước trên toàn quốc đã có nhiều nỗ lực để cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người thuộc diện TGPL theo quy định. Trong thời gian từ 01/01/2018 đến 31/5/2025, các Trung tâm TGPL nhà nước đã thực hiện 73.783 lượt người dân tộc thiểu số (chiếm 29,6% tổng số lượt người được trợ giúp pháp lý). Nhờ sự hỗ trợ của người thực hiện TGPL, nhiều người dân tộc thiểu số đã được tư vấn, giải đáp các vướng mắc pháp luật, nâng cao hiểu biết và ý thức pháp luật, trên cơ sở đó để họ ứng xử phù hợp với pháp luật, tôn trọng và chấp hành pháp luật, góp phần bảo đảm công lý, thực hiện công bằng xã hội, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, phòng ngừa vi phạm pháp luật. Các Trung tâm đã thực hiện được nhiều vụ việc TGPL tham gia tố tụng thành công; có nhiều vụ án được tuyên mức án nhẹ hơn hoặc chuyển tội danh hay thay đổi khung hình phạt thấp hơn so với mức đề nghị trong cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân, thậm chí có những vụ việc được tuyên vô tội. Thông qua các vụ việc tham gia tố tụng, người dân tộc thiểu số thuộc diện được TGPL được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp theo đúng quy định của pháp luật. Một số trường hợp có tranh chấp đất sản xuất người thực hiện trợ giúp pháp lý đã giúp người dân tộc thiếu số lấy lại được đất canh tác hoặc được đền bù theo đúng quy định, giúp họ an tâm, ổn định cuộc sống, đồng thời góp phần bảo đảm sinh kế của người dân.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác TGPL nói chung và TGPL cho người dân tộc thiểu số còn gặp một số khó khăn như:
- Đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng sâu, vùng xa, đi lại khó khăn nên phần nào cũng ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận TGPL. Vẫn còn một số người dân tộc thiểu số e ngại khi tiếp cận với các cơ quan nhà nước, gặp khó khăn trong việc trình bày yêu cầu hỗ trợ và TGPL do hạn chế về ngôn ngữ, cách thức diễn đạt hoặc thói quen sử dụng phong tục, tập quán để giải quyết các vướng mắc pháp luật;
- Công tác truyền thông về TGPL tuy đã được tăng cường và đổi mới nhưng chưa thu hút được sự quan tâm của nhiều người nên khi có vướng mắc pháp luật họ không chia sẻ thông tin, không liên hệ với các tổ chức thực hiện TGPL và các cơ quan có liên quan;
- Số lượng người thực hiện TGPL biết tiếng dân tộc còn ít nên trong nhiều trường hợp thực hiện TGPL phải thông qua phiên dịch, nhiều người không có kiến thức chuyên ngành nên phần nào cũng ảnh hưởng đến kết quả TGPL và việc truyền đạt thông tin pháp luật;
- Việc phối hợp giữa các cơ quan, ban ngành, địa phương trong quá trình thực hiện chính sách TGPL cho đồng bào dân tộc thiểu số có lúc, có nơi chưa đồng bộ, chưa kịp thời, dẫn đến hiệu quả của việc thực hiện chính sách TGPL chưa cao.
3. Khoảng trống trong chính sách, pháp luật liên quan đến trợ giúp pháp lý đối với vùng DTTS cần bổ sung, điều chỉnh trong tình hình mới
- Hiện chưa có hướng dẫn cụ thể về cơ chế phối hợp chặt chẽ, liên ngành giữa các cơ quan có liên quan trong thực hiện TGPL cho người dân tộc thiểu số. Do đó, công tác TGPL ở vùng dân tộc thiểu số khó tiếp cận tới các nhóm yếu thế thực sự, thiếu kết nối với các chương trình bình đẳng giới, hoặc xây dựng thiết chế pháp luật cơ sở.
- Thực hiện chủ trương hợp nhất các tỉnh, hiện có 53 Trung tâm TGPL tại 34 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, 70 Chi nhánh của Trung tâm nhưng địa bàn các tỉnh miền núi rộng, địa bàn đi lại khó khăn nên không thuận lợi cho người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng sâu, vùng xa. Hiện đội ngũ cán bộ ở cơ sở (trưởng thôn, trưởng bản, trưởng các chi hội đoàn thể là những người gần dân nhưng chưa có cơ chế phát huy được vai trò của họ trong việc giúp chuyển tải thông tin về TGPL cũng như kết nối người dân với tổ chức thực hiện TGPL).
- Ứng dụng công nghệ thông tin ở miền núi vùng xa, vùng sâu còn gặp khó khăn, hệ thống TGPL hiện chưa kết nối đồng bộ với cơ sở dữ liệu dân tộc thiểu số quốc gia, gây khó khăn trong việc nhận diện đúng đối tượng và giám sát thực hiện chính sách. Nội dung này hiện mới chỉ được đề cập trong dự thảo sơ bộ trong Đề án Đồng bộ hóa cơ sở dân tộc thiểu số (2025), chưa được luật hóa[1].
4. Một số kiến nghị nhằm tăng cường công tác TGPL cho người dân tộc thiểu số
Với vai trò là một chính sách an sinh xã hội, TGPL đã được Đảng và Nhà nước quan tâm cả về thể chế, nguồn nhân lực và kinh phí; TGPL được ghi nhận là một nội dung trong các Chương trình mục tiêu quốc gia. Bên cạnh đó, nhiều Nghị quyết quan trọng của Đảng đã định hướng phát triển công tác trợ giúp pháp lý trong kỷ nguyên mới, cụ thể:
- Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới: “Xây dựng mạng lưới, nâng cao năng lực của hệ thống dịch vụ pháp lý, trợ giúp pháp lý và hỗ trợ pháp lý để người dân, doanh nghiệp dễ tiếp cận pháp luật” (mục 3 phần IV Nghị quyết); “Nâng cao vai trò, tính chuyên nghiệp và chất lượng trợ giúp pháp lý, nhất là trong hoạt động tố tụng tư pháp; hiện đại hóa, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hệ thống trợ giúp pháp lý; mở rộng đối tượng được trợ giúp pháp lý phù hợp với điều kiện của đất nước” (mục 7 phần IV Nghị quyết);
- Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới: “Thúc đẩy phát triển mạnh mẽ hệ thống trợ giúp pháp lý, để người dân dễ tiếp cận pháp luật; Ứng dụng công nghệ số, chuyển đổi số đồng bộ trong phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý; Bố trí nguồn ngân sách phù hợp, tương xứng cho công tác tổ chức thi hành pháp luật. Ưu tiên nguồn lực tương xứng cho công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng đặc thù, yếu thế, đồng bào dân tộc thiểu số”;
Với những chủ trương về công tác TGPL nói chung và TGPL cho người dân tộc thiểu số nói riêng như trên đã đặt ra yêu cầu thể chế hóa kịp thời, đầy đủ trong các văn bản quy phạm pháp luật để bảo đảm chính sách TGPL và chính sách dân tộc đi vào cuộc sống. Vì vậy, một số nội dung đề xuất cần nghiên cứu thể hiện trong dự thảo Luật về lĩnh vực dân tộc như sau:
- Cần quy định cụ thể quyền được TGPL là một trong những quyền cơ bản của đồng bào dân tộc thiểu số, đặc biệt là những người cư trú ở vùng đặc biệt khó khăn nhằm góp phần bảo đảm công bằng trước pháp luật và tiếp cận công lý của người dân.
- Nghiên cứu bổ sung người dân tộc thiểu số thuộc dân tộc rất ít người nhằm thực hiện toàn diện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước;
- Quy định trách nhiệm của các cơ quan có liên quan (cơ quan quản lý nhà nước về công tác dân tộc, cơ quan quản lý về TGPL và tổ chức thực hiện TGPL, chính quyền địa phương, tổ chức đoàn thể, cán bộ tại cộng đồng,…) trong việc phổ biến, truyền thông về chính sách, pháp luật TGPL, phối hợp trong TGPL để giúp người dân, đặc biệt là người dân tộc thiểu số biết và tiếp cận, sử dụng dịch vụ TGPL miễn phí của Nhà nước;
- Quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm chất lượng và nguồn lực (nhân lực, kinh phí, cơ sở vật chất, ứng dụng công nghệ thông tin) cho công tác hỗ trợ và TGPL cho người dân tộc thiểu số;
- Mở rộng mạng lưới các tổ chức thực hiện hỗ trợ và TGPL, đội ngũ cộng tác viên (trong đó có cộng tác viên TGPL) tại vùng có người dân tộc thiểu số để có thể kịp thời nắm bắt, tiếp nhận thông tin, giải thích và thông báo nhu cầu TGPL của người dân cho các cơ quan chức năng hữu quan (trong đó có trung tâm TGPL nhà nước). Cần có chế độ ưu đãi, khuyến khích, thu hút sinh viên Luật, các cán bộ trẻ, có khả năng sử dụng tiếng dân tộc về công tác tại các cơ quan, tổ chức (trong đó có tổ chức thực hiện TGPL) ở các địa phương có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống;
- Quy định cơ chế lồng ghép có hiệu quả các chính sách ưu đãi cho người dân tộc thiểu số với hoạt động trợ giúp pháp lý để tạo điều kiện cho việc triển khai thực hiện các chính sách đồng bộ, hiệu quả và tiết kiệm nguồn lực;
- Quy đinh cụ thể trách nhiệm kiểm tra, giám sát, đánh giá định kỳ hiệu quả của các hoạt động hỗ trợ và trợ giúp pháp lý cho đồng bào dân tộc thiểu số, nhằm kịp thời điều chỉnh và nâng cao chất lượng dịch vụ.