Bồi dưỡng chức danh trợ giúp viên pháp lý trong giai đoạn hiện nay: Yêu cầu thực tiễn và giải pháp hoàn thiện

Trong bối cảnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, công tác trợ giúp pháp lý (TGPL) ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người yếu thế, góp phần bảo đảm công bằng, bình đẳng trong tiếp cận công lý. Trợ giúp viên pháp lý - lực lượng nòng cốt thực hiện TGPL tại các Trung tâm TGPL nhà nước đang đứng trước yêu cầu ngày càng cao của xã hội, cùng với quá trình cải cách tư pháp, chuyển đổi số và hội nhập quốc tế, với nhiều thách thức mới về chuyên môn, kỹ năng, đạo đức nghề nghiệp và khả năng thích ứng với công nghệ. Vì vậy, việc xây dựng kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo chuyên sâu, bài bản và toàn diện là hết sức cần thiết và cấp bách, nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL, đồng thời củng cố vị thế và vai trò của chức danh này trong hệ thống tư pháp. Bài viết này tập trung phân tích bối cảnh, thực trạng, những yêu cầu đặt ra trong công tác bồi dưỡng trợ giúp viên pháp lý; đánh giá những mặt đạt được, những khó khăn, hạn chế và đưa ra các giải pháp, kiến nghị cụ thể nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ trợ giúp viên pháp lý trong thời gian tới.

Tiêu chuẩn nghề nghiệp và thực trạng đội ngũ trợ giúp viên pháp lý
Tiêu chuẩn trợ giúp viên pháp lý đã được quy định cụ thể tại Điều 19 Luật TGPL[1]. Chức danh nghề nghiệp trợ giúp viên pháp lý được chia thành ba hạng (hạng I, hạng II và hạng III) với các tiêu chuẩn cụ thể quy định tại các Điều 5, Điều 6, Điều 7 Thông tư số 05/2022/TT-BTP ngày 05/9/2022 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định mã số, tiêu chuẩn và xếp lương đối với chức danh nghề nghiệp viên chức trợ giúp viên pháp lý.
Tính đến ngày 30/9/2025, cả nước có 712 trợ giúp viên pháp lý. Số lượng trợ giúp viên pháp lý được củng cố, tăng dần qua từng năm (năm 2017 có 630 trợ giúp viên pháp lý/873 biên chế của Trung tâm; đến 30/9/2025 có 712 trợ giúp viên pháp lý/1252 biên chế của Trung tâm). Tuy nhiên, sau khi hợp nhất, một số Trung tâm chỉ có từ 5 - 10 trợ giúp viên pháp lý, trong khi địa bàn rộng, khối lượng công việc nhiều, đặc biệt là ở vùng xa, vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc thiểu số[2]. Một số địa phương áp dụng lộ trình tinh giảm biên chế sự nghiệp TGPL[3] gây khó khăn trong việc tuyển dụng, đào tạo, củng cố nguồn nhân lực thực hiện TGPL ở địa phương.
TGPL là việc cung cấp dịch vụ sự nghiệp công, việc này đòi hỏi trợ giúp viên pháp lý cần có kiến thức về pháp luật nội dung, đặc biệt là các kỹ năng hành nghề như kỹ năng tư vấn pháp luật, kỹ năng tham gia bào chữa hoặc đại diện trước các cơ quan tiến hành tụng, kỹ năng tranh tụng, am hiểu về tâm lý của người được TGPL. Do đó, nhìn chung, đội ngũ trợ giúp viên pháp lý có trình độ chuyên môn vững vàng, được tuyển chọn và đào tạo bài bản, có kinh nghiệm, kỹ năng cơ bản đáp ứng được yêu cầu chung của công tác TGPL, có tinh thần làm việc nhiệt huyết, tận tụy, gắn bó lâu dài với nghề, thể hiện trách nhiệm xã hội cao.
Thực tiễn triển khai công tác bồi dưỡng
Việc bồi dưỡng nâng cao kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp là yêu cầu bắt buộc đối với trợ giúp viên pháp lý. Theo điểm b, Khoản 2 Điều 18 Luật TGPL, trợ giúp viên pháp lý có nghĩa vụ tham gia các khóa bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ hàng năm. Cụ thể, Điều 4 Thông tư số 12/2018/TT-BTP quy định rõ: thời gian bồi dưỡng tối thiểu là 08 giờ/năm. Nội dung bồi dưỡng tập trung vào ba nhóm chính: (1) kiến thức pháp luật cần thiết cho hoạt động TGPL; (2) kỹ năng thực hiện TGPL, bao gồm kỹ năng tư vấn, tranh tụng, làm việc với các nhóm yếu thế; (3) quy tắc nghề nghiệp và đạo đức nghề TGPL.
Các lớp bồi dưỡng cho trợ giúp viên pháp lý được tổ chức chủ yếu theo hình thức tập huấn chuyên đề, thông qua các chương trình kế hoạch do Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý (Bộ Tư pháp) chủ trì tổ chức theo hướng chuyên sâu, thực tiễn và linh hoạt, phù hợp với đặc điểm hoạt động nghề nghiệp của đội ngũ trợ giúp viên pháp lý tại địa phương. Trong những năm gần đây, Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý đã đẩy mạnh đổi mới nội dung và phương pháp bồi dưỡng, tập trung vào: (1) cập nhật kịp thời các quy định pháp luật mới liên quan đến tố tụng, dân sự, hình sự, hành chính; (2) chia sẻ kinh nghiệm qua hội thảo, tọa đàm; (3) bồi dưỡng chuyên đề theo hình thức TGPL (tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng, truyền thông TGPL…); (4) đào tạo kỹ năng TGPL cho nhóm yếu thế đặc thù như: người dân tộc thiểu số, người khuyết tật, phụ nữ nông thôn, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.
Chất lượng các lớp bồi dưỡng ngày càng được nâng cao nhờ sự tham gia của đội ngũ giảng viên có uy tín, giàu kinh nghiệm thực tiễn trong lĩnh vực TGPL. Hình thức tổ chức lớp học cũng đang chuyển dần sang mô hình kết hợp trực tiếp và trực tuyến, giúp tăng phạm vi tiếp cận, giảm chi phí, linh hoạt thời gian học tập, nhất là trong bối cảnh một số địa phương còn gặp khó khăn về kinh phí và nhân lực.
Kết quả đạt được từ công tác bồi dưỡng chức danh trợ giúp viên pháp lý
Kiến thức thu được từ các lớp bồi dưỡng đã được các học viên áp dụng trong hoạt động nghề nghiệp của mình, đặc biệt là hoạt động tranh tụng tại các cơ quan tiến hành tố tụng, từ đó đội ngũ trợ giúp viên pháp lý đã khẳng định được vị trí, vai trò của mình, được các cơ quan tiến hành tố tụng ghi nhận và đánh giá cao. Công tác bồi dưỡng từng bước nâng cao mặt bằng chung về trình độ và năng lực thực hiện TGPL, từng bước tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp trợ giúp viên pháp lý theo quy định. Đội ngũ trợ giúp viên pháp lý sau khi được bồi dưỡng, hiệu quả công tác được nâng lên rõ rệt, ngày càng đáp ứng nhu cầu TGPL của người dân cũng như nâng cao chất lượng, hiệu quả vụ việc TGPL. 
Những năm gần đây, tỷ lệ trợ giúp viên pháp lý tham gia tố tụng để đại diện, bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được TGPL ngày càng tăng. Đội ngũ trợ giúp viên pháp lý ngày càng trưởng thành và khẳng định được vai trò của mình trong việc thực hiện TGPL, nhất là tham gia tố tụng. Tại một số tỉnh miền núi, địa bàn khó khăn, đội ngũ trợ giúp viên pháp lý đóng vai trò chủ chốt trong việc thực hiện các vụ việc tham gia tố tụng trong những vụ việc bắt buộc phải có sự tham gia của luật sư, khắc phục tình trạng thiếu luật sư trong thời điểm hiện nay.
Theo báo cáo của các địa phương, tính từ ngày 01/01/2018 đến ngày 31/05/2025[4], toàn quốc có 248.598 vụ việc TGPL kết thúc, trong đó có 151.177 vụ việc tham gia tố tụng (chiếm 60.8% tổng số vụ việc); 95.270 vụ việc tư vấn pháp luật; 2.151 vụ việc đại diện ngoài tố tụng.
Chất lượng vụ việc TGPL được chú trọng. Theo thống kê, từ ngày 01/01/2018 đến hết ngày 31/12/2024, có 43.938 vụ việc tố tụng được đánh giá là vụ việc thành công (chiếm 31,5% tổng số vụ việc tham gia tố tụng), trong đó, trợ giúp viên pháp lý thực hiện được 37.996 vụ việc thành công, chiếm 86% tổng số vụ việc thành công. Nhiều vụ việc TGPL tham gia tố tụng được đánh giá hiệu quả để xác định là vụ việc thành công, trong đó có vụ án người được TGPL được tuyên mức án nhẹ hơn hoặc chuyển tội danh hoặc thay đổi khung hình phạt thấp hơn so với mức đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân. Qua đó, TGPL đã góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL. Người thực hiện TGPL đã thể hiện tinh thần trách nhiệm cao, thực hiện đúng các quy định về tố tụng và các quy tắc đạo đức nghề nghiệp. Sự tham gia của người thực hiện TGPL tại các cơ quan tiến hành tố tụng cũng góp phần giúp các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng điều tra, truy tố, xét xử khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Kết quả này được minh chứng thông qua tỷ lệ vụ việc TGPL tham gia tố tụng được đánh giá hiệu quả để xác định thành công ngày càng cao.
Một số khó khăn, hạn chế trong công tác bồi dưỡng chức danh trợ giúp viên pháp lý
Thứ nhất, một số trợ giúp viên pháp lý (thậm chí có Giám đốc, Phó Giám đốc Trung tâm) đã được bổ nhiệm theo quy định của Luật TGPL năm 2006 (Luật này không yêu cầu phải đào tạo nghề luật sư và tập sự TGPL) vì lý do công việc đã chuyển công tác khác nên không còn giữ chức danh trợ giúp viên pháp lý. Theo quy định hiện hành, khi họ quay trở lại làm công tác TGPL cần phải qua đào tạo nghề luật sư (18 tháng) và tập sự TGPL (12 tháng).
Thứ hai, đội ngũ trợ giúp viên pháp lý của một số Trung tâm còn thiếu so với nhu cầu TGPL ngày càng tăng của người dân vì vậy đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của hoạt động TGPL. Chất lượng nguồn nhân lực làm công tác TGPL phát triển chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ công tác TGPL trong tình hình mới. Đội ngũ trợ giúp viên pháp lý phát triển chậm, một số địa phương còn thiếu ổn định, chưa có đủ số lượng trợ giúp viên pháp lý cần thiết. Việc triển khai thực hiện TGPL cho đồng bào dân tộc thiểu số còn hạn chế do số lượng người thực hiện TGPL biết tiếng dân tộc còn ít nên cũng ảnh hưởng đến kết quả TGPL nhất là trong việc truyền đạt thông tin pháp luật. 
Thứ ba, một số nội dung và tài liệu chưa thật chi tiết và phong phú, chưa có nhiều vụ việc, tình huống mẫu; một số lớp bồi dưỡng vẫn sử dụng phương pháp truyền thống nên việc lĩnh hội, tiếp thu các kiến thức của học viên còn thụ động. 
Thứ tư, theo quy định hiện hành thì đối với các hội nghị, tập huấn sử dụng ngân sách nhà nước sẽ không chi trả đi lại và chi phí ăn nghỉ cho viên chức, trong khi đó, ngân sách của các địa phương hạn chế, do đó nhiều Trung tâm gặp khó khăn trong việc cử viên chức tham gia các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ do Bộ Tư pháp tổ chức.
Thứ năm, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý vụ việc, báo cáo, truyền thông, trong phiên toà trực tuyến… đang là xu hướng tất yếu. Tuy nhiên, nhiều trợ giúp viên chưa được đào tạo bài bản về công nghệ thông tin, dẫn đến lúng túng trong sử dụng phần mềm, nền tảng số.
Thứ sáu, trợ giúp viên phải xử lý nhiều loại vụ việc với mức độ phức tạp khác nhau, làm việc ở địa bàn rộng, đi lại nhiều nhưng chế độ phụ cấp chưa thực sự phù hợp. Trong khi đó, cơ hội thăng tiến và phát triển nghề nghiệp còn hạn chế so với các chức danh khác trong ngành tư pháp.
Thứ bảy, một số trợ giúp viên chưa được tạo điều kiện học tập thường xuyên hoặc không có điều kiện tham gia lớp tập huấn chuyên sâu do vướng công việc, kinh phí. Việc tự học, tự cập nhật kiến thức còn phụ thuộc vào ý thức cá nhân, chưa được hỗ trợ bởi hệ thống đào tạo bài bản.
Bối cảnh, yêu cầu đặt ra nhu cầu bồi dưỡng chức danh trợ giúp viên pháp lý
Thứ nhất, trước những yêu cầu mới của đất nước, của ngành Tư pháp hiện nay - đặc biệt là yêu cầu cải cách tư pháp, chuyển đổi số, sắp xếp tổ chức bộ máy, cũng như triển khai các chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước theo Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 9/11/2022, Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025[5], Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025; Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024; Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/01/2025.
Thứ hai, ngày 19/11/2022, Nghị quyết số 27-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương về tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới xác định phương hướng, nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực pháp luật, nâng cao năng lực, trình độ, bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác xây dựng và thi hành pháp luật, nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực tư pháp. 
Thứ ba, tại Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, một trong những quan điểm chỉ đạo đó là: “Nhà nước chăm lo, bảo đảm cung cấp dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu, nâng cao khả năng tiếp cận và chất lượng dịch vụ sự nghiệp công cho mọi tầng lớp nhân dân trên cơ sở giữ vững, phát huy tốt hơn nữa vai trò chủ đạo, vị trí then chốt, bản chất tốt đẹp, ưu việt, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận của các đơn vị sự nghiệp công lập”. Trong đó, TGPL được xác định là dịch vụ sự nghiệp công thiết yếu theo Quyết định số 2069/QĐ-TTg ngày 08/12/2021 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Danh mục dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu thuộc ngành Tư pháp). 
Thứ , Luật TGPL năm 2017 ghi nhận trách nhiệm của Nhà nước đối với hoạt động TGPL. Quy định này thể hiện cam kết của Nhà nước đối với chính sách an sinh xã hội quan trọng của Đảng và Nhà nước trong xóa đói giảm nghèo về pháp luật cho những người không có khả năng chi trả dịch vụ pháp lý trên thị trường. Nhà nước thực hiện trách nhiệm của mình thông qua: (1) thành lập hệ thống các tổ chức TGPL của Nhà nước bảo đảm sự chủ động trong việc đáp ứng nhu cầu TGPL của người dân; (2) bảo đảm kinh phí cho hoạt động TGPL. Quyết định số 2069/QĐ-TTg và Quyết định số 2070/QĐ-TTg ngày 8/12/2021 của Thủ tướng Chính phủ đã xác định TGPL là dịch vụ sự nghiệp công lập thiết yếu do ngân sách nhà nước bảo đảm chi thường xuyên và trong quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc phạm vi quản lý nhà nước của ngành Tư pháp.
Thứ năm, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, đội ngũ trợ giúp viên pháp lý đang đứng trước nhiều thách thức: các quy định pháp luật liên tục thay đổi, đòi hỏi phải cập nhật thường xuyên; vụ việc TGPL ngày càng đa dạng, phức tạp, yêu cầu chuyên môn sâu; người được TGPL có hoàn cảnh đặc biệt, cần kỹ năng xử lý mềm mại, nhân văn; yêu cầu về minh bạch, trách nhiệm giải trình, và chuyển đổi số trong hoạt động TGPL ngày càng cao.
Nhu cầu bồi dưỡng chức danh trợ giúp viên pháp lý
Trước bối cảnh đặt ra, căn cứ vào thực trạng công tác bồi dưỡng trợ giúp viên pháp lý, việc bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho đội ngũ trợ giúp viên pháp lý là hết sức cần thiết và cấp bách, cụ thể:
Thứ nhất, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, pháp luật mới: Cập nhật các quan điểm, chủ trương, chính sách mới của Đảng về công tác TGPL; những quy định pháp luật mới về TGPL; pháp luật về hình sự, dân sự, đất đai, lao động, hôn nhân gia đình, hành chính, tư pháp người chưa thành niên, phòng, chống mua bán người…
Thứ hai, bồi dưỡng kỹ năng nghề nghiệp: kỹ năng tranh tụng; kỹ năng phỏng vấn, khai thác thông tin; kỹ năng hòa giải, tư vấn tâm lý; kỹ năng soạn thảo văn bản pháp lý; kỹ năng phối hợp với các cá nhân, tổ chức có liên quan; kỹ năng thực hiện TGPL cho đối tượng đặc thù; kỹ năng thu thập chứng cứ, xác minh, kỹ năng thực nghiệm hiện trường; kỹ năng ghi chép, thuyết trình; kỹ năng viết luận cứ...
Thứ ba, bồi dưỡng ứng dụng công nghệ trong TGPL: kỹ năng sử dụng phần mềm quản lý vụ việc; kỹ năng tra cứu, cập nhật thông tin pháp luật trực tuyến; kỹ năng tổ chức TGPL qua các nền tảng trực tuyến; kỹ năng sử dụng AI trong các hoạt động TGPL…
Thứ tư, bồi dưỡng về đạo đức nghề nghiệp và kỹ năng mềm: đạo đức nghề nghiệp, trách nhiệm xã hội: kỹ năng giao tiếp, làm việc với người dân, đặc biệt là người yếu thế; kỹ năng quản lý thời gian, làm việc nhóm hiệu quả.
Giải pháp trong thời gian tới
Thứ nhất, rà soát đội ngũ trợ giúp viên pháp lý hiện có, trên cơ sở điều kiện thực tế, nhu cầu TGPL của từng địa phương để xác định số lượng trợ giúp viên pháp lý cần bồi dưỡng; đánh giá nhu cầu để có kế hoạch bồi dưỡng với các hình thức phù hợp theo hướng chuyên sâu nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng tranh tụng, kỹ năng làm việc với các đối tượng đặc thù và thực hiện TGPL trên từng lĩnh vực cụ thể (xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả kế hoạch bồi dưỡng phù hợp đối với từng nhóm như: nguồn trợ giúp viên pháp lý, trợ giúp viên pháp lý mới được bổ nhiệm, trợ giúp viên pháp lý hạng III được bổ nhiệm lâu năm, trợ giúp viên pháp lý hạng II…).
Thứ hai, quan tâm bồi dưỡng, phát triển đội ngũ chuyên viên pháp lý hiện có để tạo nguồn trợ giúp viên pháp lý; tăng số lượng trợ giúp viên pháp lý; ưu tiên tuyển dụng viên chức của Trung tâm TGPL nhà nước là người đã được đào tạo nghề luật sư. 
Thứ ba, tiếp tục đổi mới công tác bồi dưỡng đội ngũ trợ giúp viên pháp lý theo hướng kết hợp giữa tự học, tự nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện với bồi dưỡng, tập huấn lại, trong đó đặc biệt chú trọng việc tự học tập nâng cao trình độ, cập nhật kiến thức mới và kỹ năng làm việc.  
Thứ tư, mời chuyên gia có kinh nghiệm chuyên môn sâu phối hợp tổ chức các chuyên đề kỹ năng chuyên sâu (ví dụ: bảo vệ phụ nữ - trẻ em bị bạo lực, người di cư, nạn nhân buôn bán người, người khuyết tật, đất đai, hình sự, dân sự); khuyến khích học tập từ các hệ thống pháp lý tiên tiến, áp dụng phù hợp trong điều kiện Việt Nam; có chính sách khuyến khích giảng viên là trợ giúp viên pháp lý giàu kinh nghiệm tham gia giảng dạy, chia sẻ thực tiễn.
Thứ năm, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin, tiếp tục hoàn thiện, nâng cao chất lượng hệ thông tài liệu bồi dưỡng đáp ứng nhu cầu giảng dạy, nâng cao kiến thức, kỹ năng theo hướng kết hợp phương thức trực tiếp, phương thức trực tuyến và phương thức kết hợp. 
 Đề xuất, kiến nghị
Thứ nhất, xây dựng kế hoạch bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực làm công tác TGPL hằng năm và dài hạn với các hình thức phù hợp để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức quản lý; bồi dưỡng về ngôn ngữ, tiếng nói của đồng bào dân tộc thiểu số tại các vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số. 
Thứ hai, căn cứ nhu cầu TGPL, mỗi tỉnh cần xác định rõ số lượng trợ giúp viên pháp lý để trên cơ sở đó xây dựng quy hoạch, tuyển dụng viên chức nhằm tạo nguồn bổ nhiệm trợ giúp viên pháp lý, đồng thời, chủ động trong việc xây dựng chương trình, tài liệu bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng thực hiện TGPL cho đội ngũ này. 
Thứ ba, tổ chức các lớp bồi dưỡng nâng cao và chuyên sâu cho đội ngũ trợ giúp viên pháp lý đặc biệt là các kỹ năng thực hiện TGPL cho đối tượng đặc thù; tổ chức các Hội thảo, tọa đàm, nghiên cứu chuyên đề, học tập kinh nghiệm để người thực hiện TGPL có cơ hội trao đổi về nghiệp vụ và kinh nghiệm thực hiện TGPL.
Thứ năm, ứng dụng công nghệ thông tin vào theo dõi, đánh giá chất lượng hoạt động người thực hiện TGPL và phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tiến hành tố tụng có liên quan để đánh giá công tác phối hợp thực hiện TGPL, qua đó, có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, kiến nghị cấp có thẩm quyền tổ chức đào tạo, bồi dưỡng các nội dung phù hợp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
                             Tuyết Minh
Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý
 

[1] Công dân Việt Nam là viên chức của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước có đủ tiêu chuẩn sau đây có thể trở thành trợ giúp viên pháp lý:
1. Có phẩm chất đạo đức tốt;
2. Có trình độ cử nhân luật trở lên;
3. Đã được đào tạo nghề luật sư hoặc được miễn đào tạo nghề luật sư; đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư hoặc tập sự trợ giúp pháp lý;
4. Có sức khỏe bảo đảm thực hiện trợ giúp pháp lý;
5. Không đang trong thời gian bị xử lý kỷ luật.
 
[2] Sơn La, Lai Châu, Quảng Ninh, Cao Bằng.
[3] Theo Đề án đổi mới công tác TGPL giai đoạn 2015 - 2025.
[4] Thời gian thống kê được thực hiện theo Thông tư số 03/2019/TT-BTP ngày 15/5/2019 của Bộ Tư pháp quy định về hoạt động thống kê của Ngành Tư pháp.
[5] Nhiệm vụ, giải pháp về công tác TGPL được nêu tại Nghị quyết số 66-NQ/TW: “Thúc đẩy phát triển mạnh mẽ hệ thống dịch vụ pháp lý, hỗ trợ pháp lý, trợ giúp pháp lý”; “Ứng dụng công nghệ số, chuyển đổi số đồng bộ trong phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý”; “Ưu tiên nguồn lực tương xứng cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý cho đối tượng đặc thù, yếu thế, đồng bào dân tộc thiếu số”.