Luật Trợ giúp pháp lý Trung Quốc năm 2022 và một số nội dung mà Việt Nam có thể học tập

Hệ thống thực hiện bào chữa hình sự với sự tham gia của các luật sư bào chữa miễn phí được thành lập tại nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc) vào những năm 50 của thế kỷ 20. Năm 1994, Chính phủ Trung Quốc đã chỉ đạo việc nghiên cứu và thành lập hệ thống trợ giúp pháp lý (TGPL) đặc trưng của Trung Quốc. Sau đó, những nỗ lực thiết lập các cơ quan TGPL trên cả nước nhằm mục đích thực hiện TGPL miễn phí cho người nghèo đã được bắt đầu vào năm 1996. Ngày 01/9/2003, Quy tắc TGPL đã được Quốc vụ việc Trung Quốc ban hành, quy định TGPL thuộc về trách nhiệm của Chính phủ và thiết lập cơ cấu tổ chức và các nguyên tắc chung của hệ thống TGPL ở Trung Quốc.

Sau 19 năm thực hiện Quy tắc TGPL, Luật TGPL Trung Quốc được ban hành nhằm nâng cao hiệu quả TGPL, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL, bảo đảm thực thi pháp luật, giữ gìn công lý và công bằng xã hội. Luật gồm 07 Chương, 71 Điều và có hiệu lực thi hành từ tháng 01 năm 2022, là văn bản pháp lý quan trọng điều chỉnh việc bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua dịch vụ TGPL miễn phí cho người dân, đặc biệt là người yếu thế trong xã hội.
Luật TGPL Trung Quốc năm 2022 ra đời đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; thể chế hóa các chính sách lớn của Đảng Cộng sản Trung Quốc về công bằng xã hội, hỗ trợ pháp lý cho người yếu thế; khắc phục những bất cập trong thực tiễn thi hành Quy tắc TGPL năm 2003 như phạm vi hẹp, thiếu cơ chế bảo đảm chất lượng, thiếu nguồn lực hỗ trợ.
 Một số nội dung cơ bản của Luật TGPL Trung Quốc năm 2022
1. Các tổ chức thực hiện TGPL:
- Tổ chức TGPL do cơ quan hành chính tư pháp cấp huyện trở lên thành lập.
- Công ty luật, Trung tâm dịch vụ pháp lý: Cơ quan hành chính tư pháp lựa chọn các Công ty luật, các trung tâm dịch vụ pháp lý ở cơ sở thông qua hình thức đấu thầu cung ứng dịch vụ công để lựa chọn các công ty luật và các trung tâm dịch vụ pháp lý cung cấp dịch vụ TGPL. Các Công ty luật và trung tâm dịch vụ pháp lý cấp cơ sở có trách nhiệm hướng dẫn và bảo đảm các điều kiện cần thiết để luật sư và nhân viên dịch vụ pháp lý của họ thực hiện nghĩa vụ TGPL.
2. Hình thức thực hiện TGPL: Tổ chức TGPL bố trí để người thực hiện TGPL thực hiện cung cấp dịch vụ pháp lý theo các hình thức sau: (1) Tư vấn pháp luật; (2) Chuẩn bị hồ sơ pháp lý; (3) Bào chữa và đại diện; (4) Đại diện trong tố tụng và ngoài tố tụng đối với các vụ án dân sự, vụ án hành chính và vụ việc bồi thường nhà nước; (5) Hỗ trợ pháp lý cho luật sư chỉ định; (6) Đại diện trong hoà giải và trọng tài về tranh chấp lao động; (7) Các hình thức khác theo quy định của pháp luật.
Riêng đối với dịch vụ tư vấn pháp luật, tổ chức TGPL có thể tư vấn thông qua các hình thức đa dạng như qua điện thoại, qua dịch vụ tại các phòng điện thoại công cộng, internet.
3. Người thực hiện TGPL bao gồm: (1) Nhân viên có chứng chỉ luật sư hoặc chứng chỉ chuyên môn pháp lý làm việc tại tổ chức TGPL; (2) Luật sư làm nhiệm vụ trực tại Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Trại tạm giam và những nơi khác để TGPL cho bị can, bị cáo phạm tội mà không có người bào chữa; (3) Luật sư và nhân viên dịch vụ pháp lý làm việc tại các Công ty luật và Trung tâm dịch vụ pháp lý cấp cơ sở; (4) Người làm công tác giáo dục, nghiên cứu pháp luật, sinh viên chuyên ngành luật tại các cơ sở giáo dục đại học, cơ quan nghiên cứu khoa học được làm tình nguyện viên TGPL, thực hiện TGPL cho các đối tượng theo hướng dẫn của cơ quan hành chính tư pháp như tư vấn pháp luật, soạn thảo văn bản pháp lý; (5) Các tình nguyện viện đủ điều kiện thực hiện TGPL theo quy định của pháp luật.
4. Người được TGPL bao gồm:
a) Đối với diện người phải chứng minh có khó khăn về tài chính:
 - Điều kiện có khó khăn về tài chính: Những tiêu chuẩn, điều kiện để xác định có khó khăn tài chính do chính quyền nhân dân cấp tỉnh, khu tự trị hoặc thành phố trực thuộc trung ương quy định căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế và nhu cầu TGPL của khu vực hành chính và được điều chỉnh, bổ sung một cách linh hoạt.
- Trong lĩnh vực tố tụng hình sự: (1) Người bị tình nghi, bị can, bị cáo trong vụ án hình sự do khó khăn về tài chính hoặc vì lý do khác mà không có người bào chữa thì người nhà của họ có thể đến các tổ chức TGPL để yêu cầu TGPL; (2) Bị hại, nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự, nếu không có khả năng thuê dịch vụ pháp lý do khó khăn về tài chính hoặc các lý do khác thì họ hoặc người đại diện hợp pháp của họ có thể nộp đơn yêu cầu TGPL đến các tổ chức TGPL.
- Trong các lĩnh vực khác, trường hợp đương sự không có người đại diện do khó khăn về tài chính, có thể nộp đơn đến tổ chức TGPL để được TGPL trong các trường hợp sau: (1) Yêu cầu nhà nước bồi thường theo quy định của pháp luật; (2) Yêu cầu trợ cấp bảo hiểm xã hội hoặc trợ cấp xã hội; (3) Yêu cầu hưởng trợ cấp mai táng; (4) Yêu cầu thanh toán tiền cấp dưỡng, hỗ trợ; (5) Yêu cầu chấm dứt quan hệ lao động hoặc trả công lao động; (6) Yêu cầu xác định công dân bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự; (7) Yêu cầu bồi thường thiệt hại về thể chất do tai nạn lao động, tai nạn giao thông, ngộ độc do thực phẩm hoặc thuốc hoặc tai nạn trong y khoa; (8) Yêu cầu bồi thường do ô nhiễm và hủy hoại hệ sinh thái; (9) Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
 b) Đối với diện người không phải chứng minh có khó khăn về tài chính:
- Trong tố tụng hình sự: Người bị tình nghi, bị can, bị cáo trong vụ án hình sự thuộc một trong các đối tượng sau mà không có người bào chữa thì Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan công an thông báo cho tổ chức TGPL cử luật sư tham gia bào chữa: (1) Người chưa thành niên;  (2) Người khuyết tật về thị giác, thính giác hoặc khả năng nói; (3) Người thành niên không đủ năng lực hành vi; (4) Người bị buộc tội mà tội đó có khung hình phạt cao nhất là chung thân hoặc tử hình; (5) Bị cáo bị đề nghị áp dụng án tử hình có yêu cầu TGPL; (6) Bị cáo vắng mặt trong phiên toà hình sự; (7) Những người khác theo quy định của pháp luật.
- Trong các lĩnh vực khác: (1) Người thân thích của anh hùng, liệt sĩ đề nghị bảo vệ những quyền nhân thân của anh hùng, liệt sỹ; (2) Người có yêu cầu về quyền và lợi ích công dân xuất phát từ hành vi vi phạm pháp luật; (3) Người có yêu cầu nhà nước bồi thường vì oan sai trong tố tụng; (4) Người bị lạm dụng, bị bỏ rơi hoặc bạo lực gia đình; (5) Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
5. Trách nhiệm của Nhà nước và các cơ quan nhà nước
- Trách nhiệm của Nhà nước: (1) Khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức nhân dân, các cơ sở công lập, các tổ chức xã hội thực hiện TGPL một cách hợp pháp dưới sự hướng dẫn của các cơ quan hành chính tư pháp; (2) Khuyến khích và hỗ trợ các lực lượng xã hội như doanh nghiệp, các tổ chức công lập, các tổ chức xã hội và cá nhân hỗ trợ các tổ chức TGPL; (3) Khen thưởng những tổ chức, cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác TGPL; (4) Khuyến khích và quản lý các dịch vụ tình nguyện viên TGPL, hỗ trợ các tình nguyện viên đủ điều kiện thực hiện TGPL theo quy định của pháp luật. Các biện pháp quản lý cụ thể đối với tình nguyện viên TGPL do các cơ quan chuyên môn của Hội đồng Nhà nước hướng dẫn; (5) Thiết lập và hoàn thiện các cơ chế điều tiết các nguồn lực dịch vụ pháp lý giữa các khu vực; khuyến khích, hỗ trợ các trung tâm dịch vụ pháp lý, luật sư, tình nguyện viên TGPL, v.v. trong việc cung cấp TGPL ở các khu vực còn thiếu hụt các nguồn lực dịch vụ pháp lý; (6) Tăng cường sử dụng công nghệ thông tin trong TGPL, thúc đẩy chia sẻ thông tin và phối hợp nhiệm vụ giữa các cơ quan hành chính tư pháp, các cơ quan tư pháp và các cơ quan có liên quan.
Luật TGPL Trung Quốc năm 2022 khẳng định cam kết mạnh mẽ của Nhà nước Trung Quốc về quyền tiếp cận công lý cho người dân; là một bước tiến lớn trong cải cách hệ thống pháp luật và tư pháp; góp phần bảo đảm công bằng xã hội, nâng cao niềm tin của nhân dân vào pháp luật và cơ quan công quyền.
Một số kiến nghị hoàn thiện chính sách TGPL tại Việt Nam trong giai đoạn tới
Thứ nhất, xem xét mở rộng diện người được TGPL theo hưởng bổ sung các nhóm người thuộc hộ cận nghèo, người bị thiệt hại trong các vụ việc về bồi thường Nhà nước. Đồng thời, cần linh hoạt điều kiện chứng minh khó khăn để phù hợp với thực tế, đặc biệt đối với người có hoàn cảnh kinh tế – xã hội khó khăn nhưng chưa kịp xác lập giấy tờ chứng minh (người gặp khó khăn đột xuất do thiên tai, dịch bệnh, hỏa hoạn hoặc các trường hợp khẩn cấp khác theo quy định).
Thứ hai, đa dạng hóa phương thức cung ứng dịch vụ TGPL; đẩy mạnh ứng dụng các hình thức cung ứng hiện đại như tư vấn pháp luật qua internet, tổng đài công cộng, trợ lý pháp luật số, giúp dịch vụ bao phủ nhanh - rộng - chi phí thấp, thuận lợi cho nhóm yếu thế ở vùng sâu, vùng xa.
Thứ ba, bảo đảm chất lượng và minh bạch trong cung ứng dịch vụ TGPL
Thiết lập cơ chế công bố định kỳ chất lượng vụ việc TGPL, kết quả xử lý vi phạm và tiến độ giải quyết vụ việc; khuyến khích đánh giá độc lập từ tổ chức thứ ba, tạo niềm tin cho người dân, hạn chế tình trạng thực hiện hình thức.
Thứ tư, tăng cường trách nhiệm và vai trò điều phối của Nhà nước
Bảo đảm kinh phí dựa trên nhu cầu thực tế, có lộ trình tăng chi cho TGPL phù hợp với phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời tiếp tục lồng ghép TGPL trong các chương trình an sinh - giảm nghèo, hướng tới phát triển bền vững hệ thống TGPL và bảo đảm quyền tiếp cận công lý của công dân.
Thứ năm, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong TGPL
Xây dựng hệ thống chia sẻ dữ liệu với cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan, tổ chức có liên quan… nhằm xác định diện người được TGPL nhanh chóng và chính xác hơn.
Thứ sáu, thủ tục “đơn giản hóa tối đa” cho người thuộc diện yếu thế
Trung Quốc quy định rõ: không yêu cầu bổ sung giấy tờ chứng minh có khó khăn về tài chính trong các trường hợp đã có cơ quan nhà nước xác nhận qua dữ liệu; thậm chí chuyển từ “chứng minh” sang “khẳng định mặc nhiên” trong nhiều trường hợp đặc biệt. Đây là gợi mở quan trọng để Việt Nam cải cách thủ tục hành chính trong xác định diện người được TGPL.
                              Tuyết Minh
Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý