Đổi mới tư duy lập pháp theo Nghị quyết số 66-NQ/TW: Từ "luật hóa" chi tiết đến xây dựng "luật khung" linh hoạt

Bước ngoặt trong tư duy xây dựng pháp luật kỷ nguyên mới
Ngày 30/4/2025, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Đây được xem là một trong những Nghị quyết có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, không chỉ đặt ra yêu cầu cải cách kỹ thuật lập pháp, mà còn thể hiện sự thay đổi căn bản trong tư duy xây dựng pháp luật, coi pháp luật là một trong những động lực then chốt thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Một trong những nội dung đáng chú ý của Nghị quyết số 66-NQ/TW là quan điểm chỉ đạo về phạm vi và mức độ quy định của luật: “Bên cạnh một số bộ luật, luật quy định về quyền con người, quyền công dân, tố tụng tư pháp cần cụ thể, về cơ bản các luật khác, nhất là luật điều chỉnh các nội dung về kiến tạo phát triển chỉ quy định những vấn đề khung, những vấn đề có tính nguyên tắc thuộc thẩm quyền của Quốc hội, còn những vấn đề thực tiễn thường xuyên biến động thì giao Chính phủ, Bộ, ngành, địa phương quy định để bảo đảm linh hoạt, phù hợp với thực tiễn.”
Khắc phục tình trạng "luật cứng", chậm thích ứng với thực tiễn
Quan điểm này phản ánh một cách tiếp cận mới, phù hợp với bối cảnh phát triển nhanh của đời sống kinh tế – xã hội, khoa học – công nghệ và hội nhập quốc tế sâu rộng. Thực tiễn thời gian qua cho thấy, một số quy định pháp luật dù được xây dựng công phu nhưng chưa thể đáp ứng được nhu cầu thực tế, do đời sống xã hội biến động nhanh hơn so với chu trình sửa đổi, bổ sung luật. Khi luật quy định quá nhiều nội dung chi tiết có thể khiến hệ thống pháp luật trở nên cứng nhắc, khó điều chỉnh, dẫn đến khoảng trễ pháp lý và làm giảm hiệu quả quản lý nhà nước cũng như hiệu lực bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dân.
Chính vì vậy, Nghị quyết số 66-NQ/TW xác định rõ yêu cầu phân định rành mạch giữa những vấn đề mang tính nguyên tắc, nền tảng – cần được luật hóa ở mức cao nhất – với những nội dung mang tính tổ chức thực hiện, kỹ thuật nghiệp vụ, có thể được quy định trong các văn bản dưới Luật. Đây không phải là sự “giảm vai trò” của luật, mà là cách để luật thực hiện đúng vai trò định hướng, dẫn dắt, tạo hành lang pháp lý ổn định, trong khi vẫn mở ra không gian cần thiết cho sự linh hoạt trong quản lý và điều hành.
Cách tiếp cận này cũng phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới, nơi mà pháp luật vừa phải bảo đảm tính tối cao, vừa phải có khả năng thích ứng với thực tiễn. Quốc hội tập trung quyết định những vấn đề cốt lõi, liên quan trực tiếp đến quyền con người, quyền công dân, tổ chức bộ máy nhà nước và các nguyên tắc quản lý lớn; Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền chịu trách nhiệm cụ thể hóa, tổ chức thực hiện và kịp thời điều chỉnh khi thực tiễn đặt ra yêu cầu mới.
Trợ giúp pháp lý: Minh chứng sống động cho việc áp dụng Nghị quyết số 66-NQ/TW
Trong bức tranh chung đó, lĩnh vực trợ giúp pháp lý – một thiết chế quan trọng nhằm bảo đảm quyền tiếp cận công lý của người nghèo, người yếu thế – cũng đang đứng trước yêu cầu phải đổi mới mạnh mẽ cả về tư duy lập pháp lẫn phương thức tổ chức thực hiện. Việc xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý trong giai đoạn hiện nay chính là một minh chứng rõ nét cho việc quán triệt và triển khai tinh thần Nghị quyết 66 vào thực tiễn lập pháp. Việc sửa đổi, bổ sung Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 tập trung điều chỉnh những nội dung cốt lõi, mang tính nguyên tắc, làm cơ sở cho việc hoàn thiện chính sách trợ giúp pháp lý trong giai đoạn mới. Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý được thiết kế ngắn gọn, tập trung vào việc mở rộng, làm rõ các nguyên tắc, chính sách lớn, đồng thời, các nội dung liên quan đến quy trình tiếp nhận vụ việc, trình tự thực hiện trợ giúp pháp lý, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong hoạt động trợ giúp pháp lý,… được giao cho Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền quy định cụ thể, phù hợp với điều kiện thực tiễn từng giai đoạn.
Việc giao Chính phủ quy định chi tiết không chỉ tạo điều kiện để các quy định được điều chỉnh kịp thời khi thực tiễn thay đổi, mà còn góp phần nâng cao trách nhiệm của cơ quan hành pháp trong tổ chức thực thi pháp luật. Đối với lĩnh vực trợ giúp pháp lý, điều này đặc biệt quan trọng, bởi hoạt động trợ giúp pháp lý gắn chặt với đời sống của người dân, nhất là những nhóm dễ bị tổn thương, nơi mà sự chậm trễ hay thiếu linh hoạt trong áp dụng pháp luật có thể trực tiếp ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Có thể nói rằng, việc xây dựng Luật Trợ giúp pháp lý theo hướng luật khung còn góp phần khắc phục tình trạng luật quy định quá chi tiết nhưng thiếu tính khả thi, hoặc phải sửa đổi thường xuyên khi thực tiễn thay đổi. Thay vì phải sửa luật mỗi khi phát sinh vướng mắc về tổ chức thực hiện, Chính phủ có thể chủ động điều chỉnh các văn bản hướng dẫn trong khuôn khổ luật, bảo đảm vừa tuân thủ pháp luật, vừa đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, yêu cầu đặt ra không chỉ là có nhiều luật hơn, mà là có những đạo luật “đúng” và “trúng”, đủ ổn định để định hướng lâu dài, nhưng cũng đủ mở để thích ứng với những biến động không ngừng của đời sống xã hội. Việc sửa đổi Luật Trợ giúp pháp lý theo hướng luật khung, giao Chính phủ quy định chi tiết chính là một bước đi cụ thể, thể hiện rõ quyết tâm hiện thực hóa tinh thần Nghị quyết 66, góp phần xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ, khả thi, vì người dân và vì sự phát triển bền vững của đất nước.
Nguyễn Phan Thuỳ Linh,
Phòng Quản lý trợ giúp pháp lý,
Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý