Pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa chuyển đổi số, thách thức và cơ hội

25/07/2025
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In Gửi email

I. MỞ ĐẦU

Trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ, doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) tại Việt Nam đang đứng trước những thay đổi mang tính bước ngoặt. Bên cạnh những cơ hội về tiếp cận thị trường, nâng cao năng suất và đổi mới sáng tạo, DNNVV cũng phải đối mặt với những thách thức pháp lý mới, phức tạp và có tính xuyên biên giới.
Chuyển đổi số là xu hướng tất yếu, vấn đề sống còn đối với các quốc gia, tổ chức, doanh nghiệp và người tiêu dùng trên toàn thế giới. Những sự thay đổi về  lao động, nhu cầu, tâm lý, thói quen của người dùng và các mô hình sản xuất, kinh doanh mới đang được hình thành tác động to lớn của chuyển đổi số đến đời sống xã hội và mọi doanh nghiệp hiện nay.

II. BỐI CẢNH CHUYỂN ĐỔI SỐ VÀ VAI TRÒ CỦA DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA

Chuyển đổi số được hiểu là quá trình tích hợp công nghệ số vào mọi mặt hoạt động của doanh nghiệp. Cụ thể đây là quá trình thay đổi mô hình cũ, mô hình truyền thống sang dạng doanh nghiệp số, dựa trên những ứng dụng công nghệ mới, như: Big data, IoT, điện toán đám mây,… nhằm thay đổi phương thức điều hành, quy trình làm việc và văn hóa lao động trong doanh nghiệp.
Mức độ chuyển đổi số trong doanh nghiệp theo phân loại dưới đây:[1]
Mức 0 – Chưa chuyển đổi số: Doanh nghiệp gần như chưa tiến hành hoạt động chuyển đổi số
Mức 1 – Khởi động: Doanh nghiệp bước đầu có một số hoạt động chuyển đổi số
Mức 2 – Bắt đầu: Doanh nghiệp nhận thức được tầm quan trọng của chuyển đổi số theo các trụ cột, bắt đầu tiến hành chuyển đổi số theo từng trụ cột. Có những thay đổi tích cực trong hoạt động của doanh nghiệp và trải nghiệm khách hàng
Mức 3 – Hình thành: Chuyển đổi số cơ bản được hình thành theo các trụ cột tại các phòng ban, bắt đầu hình thành doanh nghiệp số. Doanh nghiệp nhận được những lợi ích, hiệu quả thiết thực trong hoạt động của tổ chức và trải nghiệm khách hàng
Mức 4 – Nâng cao: Doanh nghiệp cơ bản trở thành doanh nghiệp số, tối ưu nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh, trải nghiệm khách hàng và một số mô hình kinh doanh chính dựa trên nền tảng số, công nghệ số, dữ liệu số
Mức 5 – Dẫn dắt: Doanh nghiệp đạt đến mức độ tiệm cận hoàn thiện chuyển đổi số, thực sự trở thành doanh nghiệp chuyển đổi số thành công. Các phương thức, mô hình kinh doanh chủ yếu dựa vào nền tảng số và dữ liệu số. Doanh nghiệp có khả năng tạo lập hệ sinh thái doanh nghiệp số vệ tinh, dẫn dắt chuyển đổi số.
Mục đích mà các doanh nghiệp chuyển đổi số thường hướng tới bao gồm: Mở rộng thị trường, tăng vị trí cạnh tranh, thúc đẩy tăng trưởng doanh thu, tăng năng suất lao động, tăng khả năng thu hút và mở rộng khách hàng.
Quá trình chuyển đổi số mang lại nhiều lợi ích đối với doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Khi ứng dụng chuyển đổi số, sự liên kết thông tin giữa các bộ phận trong doanh nghiệp được kết nối trên nền tảng một hệ thống công nghệ đồng nhất, giúp giải quyết các vấn đề ngay khi xảy ra như: phản hồi của khách hàng, sản lượng hàng giảm, nhu cầu của khách hàng…
Với chuyển đổi số, lãnh đạo doanh nghiệp sẽ có thể theo dõi toàn bộ về các hoạt động của doanh nghiệp một cách khái quát như: doanh số của từng nhân viên, biến động nhân sự, nhóm khách hàng tìm hiểu các dịch vụ và sản phẩm… sẽ được thể hiện chi tiết, cập nhật cụ thể giúp quản lý doanh nghiệp hiệu quả và thuận tiện hơn.
DNNVV chiếm gần 98% tổng số doanh nghiệp tại Việt Nam[2], là lực lượng quan trọng trong phát triển kinh tế số. Chuyển đổi số không còn là một lựa chọn mà đã trở thành yêu cầu tất yếu để các doanh nghiệp tồn tại và phát triển bền vững. Đối với các DNNVV vốn là xương sống của nền kinh tế, tiến trình này không chỉ mở ra vô số cơ hội bứt phá về thị trường, tối ưu hóa vận hành, mà còn đặt ra những thách thức pháp lý mới, phức tạp và đầy rủi ro. Tuy nhiên, do quy mô nhỏ, năng lực tài chính – quản trị hạn chế khiến DNNVV chưa tiếp cận trước các yêu cầu pháp lý mới nảy sinh trong trong thời đại chuyển đổi số, cũng như trước các thách thức và cơ hội trong kỷ nguyên mới.

 

III. NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ NỔI BẬT ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TRONG THỜI ĐẠI CHUYỂN ĐỔI SỐ

Khung pháp lý hiện hành để quản lý hoạt động kinh tế số, đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa trong thời đại chuyển đổi số thì các cơ quan nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật, một số văn bản chính yếu bao gồm:
  • Luật Giao dịch điện tử 2023: Quy định về giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu, chữ ký số, hợp đồng điện tử.
  • Luật An toàn thông tin mạng 2015: các yêu cầu về bảo vệ hệ thống thông tin, phòng chống tấn công mạng.
  • Luật An ninh mạng 2018: Quy định về phòng ngừa, xử lý các hành vi xâm phạm an ninh quốc gia trên không gian mạng.
  • Nghị định 13/2023/NĐ-CP về bảo vệ dữ liệu cá nhân: Là văn bản pháp lý quan trọng nhất, tạo ra khuôn khổ chặt chẽ về việc thu thập, xử lý và bảo vệ dữ liệu cá nhân.
  • Các văn bản pháp luật về thương mại điện tử: Nghị định 52/2013/NĐ-CP và Nghị định 85/2021/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung quy định về quản lý hoạt động thương mại điện tử.
  • Thông tư 40/2021/TT-BTC và các văn bản hướng dẫn về quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử.
  • Nghị định 117/2025/NĐ-CP quy định quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh trên nền tảng thương mại điện tử, nền tảng số của hộ, cá nhân.
  • Nghị định 49/2025/NĐ-CP ngày 28/02/2025 quy định về ngưỡng áp dụng tạm hoãn xuất cảnh.
Các vấn đề pháp lý nổi bật đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa

3.1. Pháp luật về dữ liệu cá nhân và bảo mật thông tin

Đây là một trong những thách thức pháp lý lớn nhất đối với DNNVV. Trong quá trình kinh doanh, các doanh nghiệp này thường xuyên thu thập, lưu trữ và xử lý dữ liệu cá nhân của khách hàng (tên, số điện thoại, địa chỉ, lịch sử mua hàng), nhân viên và đối tác.
          Thách thức như không tuân thủ Nghị định 13/2023/NĐ-CP: Nhiều DNNVV chưa nắm rõ các quy định bắt buộc như phải có chính sách bảo vệ dữ liệu cá nhân, phải được sự đồng ý của chủ thể dữ liệu, phải thông báo cho cơ quan quản lý (Cục An toàn thông tin) khi xảy ra sự cố, và phải chỉ định cán bộ phụ trách bảo vệ dữ liệu cá nhân. Việc vi phạm các quy định này có thể dẫn đến xử phạt vi phạm hành chính, bồi thường thiệt hại và mất uy tín nghiêm trọng.
          Thiếu hệ thống kỹ thuật bảo mật: Do hạn chế về ngân sách và nhân lực, các DNNVV thường sử dụng các hệ thống lưu trữ dữ liệu đơn giản, dễ bị tấn công mạng, dẫn đến nguy cơ rò rỉ hoặc đánh cắp dữ liệu. Nghị định 13/2023/NĐ-CP quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân yêu cầu doanh nghiệp xây dựng quy trình, có cán bộ chuyên trách và báo cáo xử lý dữ liệu. Phần lớn DNNVV không có đủ nguồn lực để thực hiện đầy đủ các yêu cầu này, dễ bị xử phạt hành chính.
          Nhận thức hạn chế: Cả doanh nghiệp và nhân viên đều chưa có ý thức đầy đủ về tầm quan trọng của việc bảo vệ dữ liệu, dẫn đến các hành vi xử lý dữ liệu thiếu an toàn.
          Ví dụ: Một DN hoạt động trong lĩnh vực giáo dục trực tuyến thu thập thông tin cá nhân của hàng ngàn học viên. Do hệ thống bảo mật yếu kém, thông tin này bị rò rỉ và rao bán trên mạng. Hậu quả là doanh nghiệp đối diện với các khiếu nại từ khách hàng, bị cơ quan chức năng kiểm tra, và uy tín bị sụt giảm nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh.

3.2. Hợp đồng điện tử và chữ ký số

          Luật Giao dịch điện tử và các văn bản hướng dẫn cho phép sử dụng chữ ký số, hợp đồng điện tử trong giao dịch thương mại. Theo đó, giao dịch điện tử, bao gồm ký kết hợp đồng, là một phần thiết yếu của chuyển đổi số. Luật Giao dịch điện tử đã công nhận giá trị pháp lý của hợp đồng điện tử, nhưng thực tế sử dụng vẫn còn nhiều rủi ro.
          Đối với giá trị pháp lý của chữ ký, Doanh nghiệp cần phân biệt rõ giữa chữ ký điện tử thông thường và chữ ký số được chứng thực. Hợp đồng điện tử chỉ có giá trị pháp lý đầy đủ và được công nhận tại các cơ quan quản lý khi sử dụng chữ ký số của các tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số công cộng.
          Tính toàn vẹn và xác thực của thông điệp dữ liệu cần đảm bảo rằng nội dung hợp đồng không bị sửa đổi sau khi ký kết là một thách thức lớn. Việc lưu trữ hợp đồng điện tử một cách an toàn, có thể kiểm tra dấu vết và thời gian ký, là cực kỳ quan trọng.
          Khi xảy ra tranh chấp, việc thu thập bằng chứng từ các giao dịch điện tử và chứng minh tính hợp lệ của hợp đồng có thể phức tạp hơn so với hợp đồng giấy. Hiện nay, DNNVV gặp khó khăn trong xác lập, lưu trữ, và xử lý tranh chấp phát sinh từ hợp đồng điện tử do thiếu kiến thức pháp lý và công cụ số hóa phù hợp.
3.3. Thương mại điện tử và Thuế
Hoạt động kinh doanh trên các sàn thương mại điện tử, mạng xã hội (Facebook, Zalo, Tiktok) và website riêng đặt ra những yêu cầu pháp lý đặc thù.
          Đảm bảo tuân thủ quy định về thương mại điện tử thì DNNVV phải tuân thủ các quy định về đăng ký, thông báo với cơ quan quản lý (đối với website thương mại điện tử bán hàng), công khai thông tin sản phẩm, chính sách đổi trả, bảo hành... Việc không tuân thủ có thể bị xử phạt hành chính.
Đối với nghĩa vụ thuế, theo Thông tư 40/2021/TT-BTC, cá nhân, hộ kinh doanh có doanh thu từ 100 triệu đồng/năm trở lên từ hoạt động kinh doanh phải nộp thuế. Nhiều hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh vẫn còn lúng túng trong việc kê khai, nộp thuế và quản lý hóa đơn điện tử, dẫn đến rủi ro bị truy thu thuế và xử phạt.
Quốc hội đã thông qua Luật số 56/2024/QH15 sửa đổi Luật Quản lý thuế 2019, trong đó bổ sung nguyên tắc khai thuế, tính thuế. Cụ thể, đối với hộ, cá nhân có hoạt động kinh doanh trên nền tảng thương mại điện tử, nền tảng số thì tổ chức là nhà quản lý sàn giao dịch thương mại điện tử, nhà quản lý nền tảng số có chức năng thanh toán (bao gồm cả tổ chức trong nước và nước ngoài) và các tổ chức có hoạt động kinh tế số khác theo quy định của Chính phủ thực hiện khấu trừ, nộp thuế thay, kê khai số thuế đã khấu trừ cho hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh. Trường hợp hộ, cá nhân có hoạt động kinh doanh trên nền tảng thương mại điện tử, nền tảng số không thuộc đối tượng được khấu trừ, nộp thuế thay thì có nghĩa vụ trực tiếp đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế. Ngày 09/6/2025 Chính phủ bạn hành Nghị định 117/2025/NĐ-CP quy định quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh trên nền tảng thương mại điện tử, nền tảng số của hộ, cá nhân.

3.4.  Quyền sở hữu trí tuệ (SHTT)

Trong môi trường số, vi phạm SHTT như sao chép nội dung, sử dụng trái phép phần mềm, logo... trở nên phổ biến. DNNVV vừa là đối tượng vi phạm vừa là nạn nhân, nhưng thường thiếu khả năng nhận diện và xử lý vi phạm. Tài sản trí tuệ, bao gồm thương hiệu, bản quyền phần mềm, thiết kế website, nội dung số, trở thành tài sản vô giá của DNNVV trong kỷ nguyên số.
Nâng cao nhức thức về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, các hành vi vi phạm như sao chép nội dung, sử dụng trái phép hình ảnh, nhãn hiệu trên các nền tảng số, mạng xã hội, sàn thương mại điện tử diễn ra tràn lan. Việc phát hiện và xử lý các vi phạm này, đặc biệt khi kẻ vi phạm ẩn danh hoặc ở nước ngoài, là rất khó khăn.
Các hạn chế trong việc đăng ký bảo hộ, chưa có ý thức đăng ký bảo hộ nhãn hiệu, bản quyền từ sớm, dẫn đến việc bị người khác đăng ký trước hoặc bị vi phạm quyền lợi mà không có cơ sở pháp lý để bảo vệ.

3.5 Các vấn đề pháp lý khác

          Theo Luật An ninh mạng 2018, doanh nghiệp phải có biện pháp bảo vệ hệ thống thông tin. Các hình thức lừa đảo, mã độc, tấn công mạng nhắm vào hệ thống tài chính – khách hàng của DNNVV ngày càng tinh vi, gây tổn thất nghiêm trọng.
          Việc quản lý, điều hành từ xa, quản lý nhân sự bằng phần mềm và công nghệ đặt ra đối quản lý giờ làm, ký hợp đồng điện tử, giám sát từ xa.. đặt ra vấn đề pháp lý đối với quyền riêng tư của người lao động, quyền hình ảnh, quyền được lãng quên...

IV. CƠ HỘI PHÁP LÝ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TRONG TRONG KỶ NGUYÊN SỐ VÀ KIẾN NGHỊ

          Tăng cường tiếp cận pháp luật và nâng cao nhận thức và kỹ năng pháp lý số, thông qua các tập huấn nội bộ, thuê chuyên gia pháp lý, tham gia các khóa đào tạo ngắn hạn… Bên cạnh đó, DNNVV có thể tra cứu văn bản pháp luật qua Cổng thông tin điện tử, sử dụng dịch vụ công trực tuyến, sử dụng các dịch vụ pháp lý trực tuyến:
https://vbpl.vn/Pages/portal.aspx
https://luatvietnam.vn/
https://thuvienphapluat.vn/
https://aitracuuluat.vn/
https://caselaw.vn/
Phát triển bộ hệ thống mẫu của doanh nghiệp như hợp đồng mẫu, quy định, quy chế,… Xây dựng quy trình quản lý tuân thủ pháp luật, gồm: quản trị dữ liệu, hợp đồng điện tử, giám sát về  SHTT và an ninh mạng
Thực hiện bảo hộ sở hữu trí tuệ với việc đăng ký nhãn hiệu, bản quyền, phần mềm… hiện có thể thực hiện trực tuyến, tăng cơ hội bảo vệ tài sản vô hình. Chủ động bảo vệ sở hữu trí tuệ thông qua các thủ tục đăng ký sớm nhất có thể. Thường xuyên theo dõi và phát hiện các hành vi vi phạm trên các nền tảng số để có biện pháp xử lý kịp thời.
Đầu tư vào các giải pháp công nghệ bảo mật, phần mềm quản lý tuân thủ. Cân nhắc làm việc với các chuyên gia, luật sư chuyên về pháp luật số để được tư vấn chiến lược và giải quyết các vấn đề phức tạp để tăng năng lực cạnh tranh. Doanh nghiệp chủ động tuân thủ pháp luật sẽ nâng cao niềm tin với đối tác, nhà đầu tư và khách hàng.
Đối với cơ quan quản lý nhà nước thì cần tiếp tục đơn giản hóa thủ tục: Ban hành các hướng dẫn chi tiết, đơn giản và dễ hiểu hơn về các quy định pháp luật số, đặc biệt dành cho các DNNVV. Triển khai các chương trình hỗ trợ pháp lý miễn phí hoặc chi phí thấp, tổ chức các khóa tập huấn về pháp luật số và an toàn thông tin cho DNNVV. Tăng cường công tác kiểm tra và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật trên môi trường mạng để tạo ra một môi trường kinh doanh an toàn, lành mạnh cho các doanh nghiệp.
V. KẾT LUẬN
Chuyển đổi số là một hành trình tất yếu và không thể đảo ngược đối với các DNNVV, việc nắm bắt cơ hội từ kỷ nguyên mới này đồng nghĩa với việc phải đối diện và giải quyết một cách chủ động các thách thức pháp lý phức tạp. Việc tuân thủ pháp luật không nên là một gánh nặng chi phí, mà DNNVV cần xem đó là một khoản đầu tư chiến lược để bảo vệ tài sản, xây dựng uy tín và đảm bảo sự phát triển bền vững. Bằng cách chủ động trang bị kiến thức, xây dựng quy trình tuân thủ và tìm kiếm sự hỗ trợ chuyên nghiệp tự tin vươn mình, khẳng định vị thế và phát triển mạnh mẽ trong nền kinh tế số.
Chuyển đổi số không chỉ là thách thức công nghệ hay kinh tế, mà còn là thách thức pháp lý đối với DNNVV. Nếu chủ động thích ứng, biết tận dụng các công cụ và chính sách hỗ trợ, doanh nghiệp sẽ không chỉ tuân thủ hiệu quả mà còn khai thác được các lợi thế từ môi trường số. Việc hoàn thiện hệ sinh thái pháp lý hỗ trợ DNNVV trong chuyển đổi số là nhiệm vụ cần thiết, đồng thời cũng là một đòi hỏi cấp bách để thúc đẩy một nền kinh tế số phát triển bền vững, công bằng và an toàn./.
 Đỗ Văn Tuyến
Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý
 

[1] Đề án xác định Chỉ số đánh giá mức độ chuyển đổi số doanh nghiệp và hỗ trợ thúc đẩy doanh nghiệp chuyển đổi số của Bộ TTTT.

Xem thêm »