16/10/2024
Xem cỡ chữ
Đọc bài viết
In
Gửi email
Hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh: Tư duy điều hành linh hoạt, hành động nhất quán từ Trung ương đến địa phươngGần bốn năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, nhiệm kỳ 2021–2026 đã chứng kiến những chuyển biến mạnh mẽ trong điều hành kinh tế vĩ mô của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới có nhiều biến động, sức ép lạm phát, đứt gãy chuỗi cung ứng, tác động từ đại dịch COVID-19 và các xung đột địa chính trị, Chính phủ đã kịp thời ban hành nhiều chủ trương, chính sách điều hành linh hoạt, sát thực tế, tạo đà cho doanh nghiệp từng bước phục hồi, phát triển.Sự điều hành quyết liệt, đồng bộ đã góp phần giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn và đặc biệt là tháo gỡ kịp thời nhiều vướng mắc, khó khăn cho cộng đồng doanh nghiệp. Nhờ đó, niềm tin thị trường được củng cố, nội lực doanh nghiệp được phục hồi, năng lực cạnh tranh từng bước được cải thiện, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế – xã hội chung của đất nước.
Đặt doanh nghiệp làm trung tâm: Quan điểm chỉ đạo xuyên suốt, hành động nhất quán
Bước sang quý IV/2024, nền kinh tế toàn cầu tiếp tục tiềm ẩn nhiều yếu tố bất định. Xung đột địa chính trị kéo dài, xu hướng bảo hộ thương mại gia tăng, chuỗi cung ứng bị gián đoạn, lãi suất và giá nguyên liệu biến động đã khiến cho áp lực đối với cộng đồng doanh nghiệp ngày càng lớn. Ở Việt Nam, trong khi nền kinh tế vẫn duy trì được đà tăng trưởng tích cực, thì sức chống chịu và khả năng phục hồi của doanh nghiệp – đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) – vẫn đang bị bào mòn bởi nhiều "nút thắt" nội tại như khó tiếp cận tín dụng, chi phí sản xuất tăng cao, thiếu đơn hàng, và sự thiếu ổn định của thị trường tiêu thụ.
Trong bối cảnh đó, ngày 07/10/2024, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Công điện số 103/CĐ-TTg về việc hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh trong những tháng cuối năm 2024 và thời gian tiếp theo. Công điện không chỉ mang tính hiệu triệu mà còn thể hiện tinh thần hành động quyết liệt của Chính phủ, trong đó xác lập một định hướng điều hành xuyên suốt và nhất quán: “Lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, là chủ thể của phục vụ; hành động của Chính phủ phải hướng đến tháo gỡ thực chất, không dừng lại ở khẩu hiệu hay chủ trương.”
Đây là một tuyên bố chính trị mạnh mẽ, thể hiện quyết tâm chuyển hóa tư duy quản lý nhà nước sang tư duy phục vụ phát triển, từ hành chính quản lý sang hành động kiến tạo. Thông điệp này cũng khẳng định: doanh nghiệp không chỉ là đối tượng thụ hưởng chính sách, mà là chủ thể đồng kiến tạo thể chế, đồng hành cùng Chính phủ trong chiến lược phát triển đất nước.
Trong Công điện 103/CĐ-TTg, Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, địa phương phải chuyển từ "nói đúng" sang "làm đúng", từ "chính sách đúng" sang "thực thi hiệu quả", bảo đảm mỗi chỉ đạo về hỗ trợ doanh nghiệp phải được cụ thể hóa thành các hành động, quy trình, mô hình phối hợp có kết quả đo lường được.
Đặc biệt, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ và Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố được giao trực tiếp chỉ đạo triển khai các nhóm nhiệm vụ ưu tiên như: rà soát và bãi bỏ các rào cản thủ tục, kiến nghị điều chỉnh quy định chồng chéo, đơn giản hóa điều kiện tiếp cận đất đai – vốn – thị trường; chủ động gặp gỡ, lắng nghe ý kiến từ thực tiễn sản xuất – kinh doanh; đặt sự hài lòng và năng lực phát triển của doanh nghiệp làm thước đo cho hiệu quả quản trị công.
Quan điểm "doanh nghiệp là trung tâm" không chỉ hiện diện trong khẩu hiệu, mà đang dần thấm vào cách làm, cách ứng xử và cách xây dựng chính sách của các cấp chính quyền. Nhiều địa phương đã chủ động thiết lập Tổ công tác hỗ trợ doanh nghiệp, ban hành Quy chế đối thoại định kỳ với doanh nghiệp, xây dựng Hệ thống theo dõi, xử lý kiến nghị của doanh nghiệp theo thời gian thực, cho thấy sự chuyển động tích cực của cả hệ thống chính trị trong đồng hành cùng cộng đồng doanh nghiệp.
Chính phủ cũng nhấn mạnh: không thể có một môi trường đầu tư hấp dẫn nếu không có khung pháp lý ổn định, dễ hiểu, dễ tiếp cận. Vì vậy, mọi chính sách khi ban hành cần đặt trong mối liên hệ trực tiếp với chi phí tuân thủ, khả năng thực hiện và tính cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Từ trung ương đến địa phương, từ cơ quan quản lý đến người thực thi, cần thấm nhuần tư tưởng: “hỗ trợ doanh nghiệp chính là đầu tư cho tăng trưởng bền vững, cho việc làm, cho an sinh, và cho vị thế quốc gia trong nền kinh tế toàn cầu.”
Thủ tướng yêu cầu Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực tiếp chỉ đạo, giám sát và chịu trách nhiệm trong triển khai các nhóm giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Đặc biệt, phải ưu tiên hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa – khu vực dễ tổn thương nhất nhưng cũng giàu tiềm năng sáng tạo, năng động, linh hoạt – đồng thời hỗ trợ các doanh nghiệp đang gặp khó khăn về tài chính, thủ tục hành chính, đất đai, thuế phí, pháp lý dự án.
Không để tình trạng "chính sách trên giấy" – Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, địa phương phải đồng bộ từ tư duy chính sách đến thực thi hành chính. Những điểm nghẽn trong thực hiện phải được rà soát thường xuyên, công khai tiến độ giải quyết vướng mắc, tránh tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”, làm mất niềm tin thị trường.
Đặc biệt, các địa phương – với vai trò “cửa ngõ thực thi” – được yêu cầu thiết lập cơ chế đối thoại định kỳ với doanh nghiệp, trực tiếp gặp gỡ, lắng nghe, tháo gỡ khó khăn từ cơ sở, chứ không chờ doanh nghiệp phải kiến nghị lên Trung ương. Những chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện nào đồng hành thực chất, hỗ trợ hiệu quả cho doanh nghiệp – đó chính là thước đo rõ nhất cho năng lực điều hành trong giai đoạn hiện nay.
Tư duy "lấy doanh nghiệp làm trung tâm" không chỉ là sự thay đổi trong mục tiêu chính sách, mà còn là sự chuyển biến mạnh mẽ trong cách hành động, cách tiếp cận và cách tổ chức bộ máy hành chính phục vụ phát triển. Trong đó, đồng bộ, minh bạch, hiệu quả và kịp thời là bốn nguyên tắc cốt lõi xuyên suốt mọi tầng nấc điều hành.
Hoàn thiện chính sách, thúc đẩy nội lực doanh nghiệp
Thủ tướng yêu cầu Bộ Tài chính khẩn trương nghiên cứu, đề xuất các chính sách thuế phù hợp, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển bền vững, trong đó có việc gia hạn nộp thuế, giảm thuế, đẩy nhanh hoàn thuế giá trị gia tăng, nhất là với các doanh nghiệp xuất khẩu và sản xuất quy mô vừa.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư được giao trọng trách xây dựng cơ chế thúc đẩy phát triển doanh nghiệp bền vững, hoàn thiện thể chế khuyến khích đổi mới sáng tạo, thu hút đầu tư vào các ngành kinh tế mũi nhọn, hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi mô hình tăng trưởng gắn với phát triển xanh, tuần hoàn và số hóa.
Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp cùng Bộ Khoa học và Công nghệ tiếp tục hoàn thiện thể chế chuyển đổi số và trí tuệ nhân tạo, hướng tới xây dựng khung quản trị AI, quy tắc đạo đức và các tiêu chuẩn kỹ thuật trong môi trường pháp lý mới, tạo điều kiện cho doanh nghiệp số khởi nghiệp, phát triển nhanh, bền vững và an toàn.
Bộ Công Thương đẩy mạnh xúc tiến thương mại, hỗ trợ doanh nghiệp đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, mở rộng chuỗi cung ứng, tổ chức hội chợ, ngày hội tiêu dùng để kích cầu thị trường nội địa. Trong khi đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường thúc đẩy xây dựng cơ chế kinh tế tuần hoàn, tài nguyên tái sử dụng và các tiêu chí chuyển đổi xanh nhằm tạo dư địa phát triển bền vững dài hạn.
Tài chính – tín dụng: Gỡ điểm nghẽn cho sản xuất, kinh doanh
Trong suốt hơn một năm trở lại đây, một trong những vấn đề được cộng đồng doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, phản ánh mạnh mẽ nhất chính là khó khăn trong tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng. Mặc dù lãi suất điều hành đã được điều chỉnh giảm nhiều lần, nhưng chi phí vay thực tế, điều kiện tiếp cận, và các rào cản hành chính vẫn khiến nhiều doanh nghiệp chưa thể tiếp cận được nguồn vốn ưu đãi để duy trì hoặc mở rộng sản xuất, kinh doanh.
Trước thực trạng đó, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phải có những giải pháp mạnh mẽ, thực chất, chuyển từ tư duy ổn định tài chính sang tư duy “hỗ trợ tăng trưởng có kiểm soát”. Trong đó, trọng tâm là:
Tiếp tục hạ mặt bằng lãi suất cho vay, đặc biệt là với các khoản vay ngắn hạn phục vụ sản xuất – kinh doanh;
Cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ cho các doanh nghiệp khó khăn nhưng có khả năng phục hồi;
Đẩy mạnh tín dụng có mục tiêu, hướng vào các lĩnh vực ưu tiên như sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, xuất khẩu, công nghệ cao, đổi mới sáng tạo...
Thủ tướng cũng yêu cầu triển khai ngay và hiệu quả gói tín dụng 140.000 tỷ đồng để hỗ trợ nhà ở xã hội – một lĩnh vực vừa có tác động lớn đến an sinh, vừa góp phần duy trì sức cầu trong nền kinh tế. Đồng thời, các chương trình tín dụng ưu đãi đối với lĩnh vực lâm sản, thủy sản – vốn đang chịu áp lực lớn từ biến đổi khí hậu, chi phí logistics và rào cản kỹ thuật quốc tế – cũng cần được khơi thông, giúp doanh nghiệp trong chuỗi nông nghiệp – thực phẩm có nguồn lực tái đầu tư, chuyển đổi mô hình sản xuất bền vững.
Cùng với đó, Ngân hàng Nhà nước được giao chủ trì phối hợp các bộ, ngành liên quan tháo gỡ vướng mắc về điều kiện cho vay, hồ sơ tín dụng, quy trình định giá tài sản bảo đảm. Trên thực tế, không ít doanh nghiệp “đói vốn” nhưng không thể vay vốn không phải vì thiếu tài sản, mà do gặp rào cản trong đánh giá rủi ro, định giá tài sản phi truyền thống (như tài sản trí tuệ, dữ liệu số...), hoặc do xếp hạng tín nhiệm thấp mà không có cơ chế hỗ trợ tiếp cận tín dụng linh hoạt.
Chính phủ cũng yêu cầu gia tăng ứng dụng công nghệ thông tin trong xét duyệt tín dụng, phát triển ngân hàng số, hệ thống tín dụng xanh, hỗ trợ doanh nghiệp trong lĩnh vực kinh tế tuần hoàn, chuyển đổi số, năng lượng tái tạo tiếp cận được nguồn vốn đặc thù, với điều kiện phù hợp và thời hạn dài hơn.
Về dài hạn, để gỡ điểm nghẽn tín dụng không chỉ là “bơm tiền” mà còn cần cải cách thể chế tài chính – tín dụng theo hướng minh bạch, linh hoạt, cá thể hóa theo loại hình doanh nghiệp, giảm thiểu tình trạng “thừa vốn – thiếu đầu ra”, qua đó tạo lập một hệ sinh thái tài chính thân thiện với doanh nghiệp, hỗ trợ đổi mới và phát triển bền vững.
Chính quyền các cấp chủ động đồng hành – Lắng nghe từ cơ sở
Trong bối cảnh nền kinh tế đang trong quá trình phục hồi và tăng tốc phát triển sau nhiều cú sốc toàn cầu, Chính phủ xác định: đồng hành cùng doanh nghiệp không chỉ là nhiệm vụ của các bộ, ngành trung ương mà còn là trách nhiệm then chốt của chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh, cấp huyện – nơi trực tiếp tiếp xúc với doanh nghiệp, người dân và xử lý các thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh.
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các địa phương chủ động thiết lập cơ chế đối thoại thường xuyên với cộng đồng doanh nghiệp, không chỉ thông qua hội nghị, hội thảo, mà phải bằng các kênh tiếp nhận ý kiến đa dạng, linh hoạt, kết hợp trực tuyến và trực tiếp, bảo đảm tiếp cận được cả các doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp địa phương, hợp tác xã, hộ kinh doanh.
Các vấn đề “nóng” như đất đai, thủ tục đầu tư, cấp phép xây dựng, chuyển mục đích sử dụng đất, giải phóng mặt bằng, pháp lý dự án, tiếp cận mặt bằng sản xuất... phải được đưa vào nội dung trao đổi định kỳ với doanh nghiệp, coi đó là kênh thông tin phản ánh thực tiễn quý báu, giúp địa phương điều chỉnh chính sách kịp thời, đúng hướng.
Đặc biệt, trong bối cảnh nhiều quy định pháp luật còn chồng chéo, chưa thống nhất hoặc đã lỗi thời so với thực tiễn phát triển kinh tế – xã hội, Thủ tướng yêu cầu chính quyền địa phương không né tránh, không đùn đẩy, mà phải chủ động tổng hợp các khó khăn vượt thẩm quyền, gửi báo cáo đầy đủ, có đề xuất giải pháp cụ thể lên cấp có thẩm quyền. Tránh tình trạng để các vướng mắc pháp lý kéo dài, gây cản trở hoạt động của doanh nghiệp, làm nản lòng nhà đầu tư và ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh chung của tỉnh, thành phố.
Một điểm mới trong chỉ đạo lần này của Chính phủ là yêu cầu xem xét việc giải quyết vướng mắc của doanh nghiệp như một tiêu chí đánh giá hiệu quả điều hành của chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện. Điều đó đồng nghĩa với việc “năng lực hỗ trợ doanh nghiệp” sẽ trở thành một chỉ số quản trị công, phản ánh rõ bản lĩnh lãnh đạo, chất lượng đội ngũ và tinh thần phục vụ của chính quyền địa phương.
Song hành với đó, các địa phương cần nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ đầu mối hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là các Trung tâm Xúc tiến đầu tư – Thương mại – Du lịch, Phòng Kinh tế hạ tầng, các Tổ công tác tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Việc thiết lập các đường dây nóng, nền tảng góp ý pháp lý trực tuyến, và hệ thống theo dõi việc xử lý kiến nghị doanh nghiệp theo thời gian thực là xu hướng cần khuyến khích mở rộng trong bối cảnh chuyển đổi số chính quyền.
Để đồng hành với doanh nghiệp không dừng ở lời hứa, mà thực sự trở thành năng lực hành động của địa phương, sự quyết liệt trong chỉ đạo, tính minh bạch trong điều hành, và sự sát sao trong giám sát là yếu tố tiên quyết.
Chỉ đạo sát sao từ Chính phủ – Phối hợp đồng bộ từ các Phó Thủ tướng
Để bảo đảm tính thống nhất và hiệu lực điều hành, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Hòa Bình được giao trực tiếp chỉ đạo, đôn đốc triển khai Công điện của Thủ tướng. Các Phó Thủ tướng khác theo lĩnh vực được phân công sẽ kiểm tra, xử lý các vướng mắc chuyên ngành, trực tiếp điều phối và giải quyết các nội dung do các bộ, địa phương kiến nghị.
Văn phòng Chính phủ có trách nhiệm theo dõi, tổng hợp, báo cáo tiến độ triển khai, nhắc nhở, đôn đốc, bảo đảm việc hỗ trợ doanh nghiệp không chỉ nằm trên giấy tờ, mà được hiện thực hóa bằng hành động cụ thể, thiết thực và kịp thời.
Chỉ đạo sát sao từ Chính phủ – Phối hợp đồng bộ từ các Phó Thủ tướng
Để bảo đảm các chủ trương hỗ trợ doanh nghiệp được thực thi một cách đồng bộ, hiệu quả và đi vào thực chất, Chính phủ đã thiết lập cơ chế chỉ đạo, điều phối liên ngành, liên cấp hết sức chặt chẽ, có sự phân công cụ thể giữa các Phó Thủ tướng Chính phủ.
Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Hòa Bình được Thủ tướng Chính phủ giao nhiệm vụ trực tiếp chỉ đạo, theo dõi, đôn đốc triển khai Công điện về hỗ trợ doanh nghiệp, bảo đảm các nội dung chỉ đạo từ Trung ương đến địa phương được thống nhất về nhận thức, quyết liệt trong hành động, không để xảy ra tình trạng “trên nóng, dưới lạnh” hay “trên đúng, dưới chờ”.
Cùng với đó, các Phó Thủ tướng khác theo lĩnh vực phụ trách – như tài chính, kinh tế, nội vụ, pháp luật, đầu tư – sẽ đóng vai trò điều phối chính sách chuyên ngành, giám sát việc triển khai tại các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, đồng thời trực tiếp xử lý, tháo gỡ những nội dung liên quan mà các bộ, ngành, địa phương báo cáo, kiến nghị. Cơ chế này không chỉ tăng tính liên thông trong điều hành mà còn bảo đảm các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp không bị phân mảnh, chồng chéo hay trùng lặp.
Văn phòng Chính phủ giữ vai trò là cơ quan đầu mối giúp Thủ tướng theo dõi tổng thể, thường xuyên tổng hợp, phân tích tình hình triển khai, kịp thời phát hiện các vướng mắc phát sinh và đề xuất phương án xử lý, đồng thời tổ chức các phiên họp chuyên đề, tổ công tác liên ngành, cuộc họp trực tuyến với các địa phương để giám sát tiến độ, đánh giá hiệu quả chính sách và thúc đẩy hành động cụ thể.
Việc triển khai Công điện không chỉ dừng lại ở cấp trung ương mà lan tỏa mạnh mẽ đến chính quyền địa phương, các tổ chức tín dụng, các sở, ban, ngành, và các tổ chức trung gian hỗ trợ doanh nghiệp. Các chỉ đạo được thiết lập theo cơ chế hành động theo mục tiêu, theo kết quả và gắn trách nhiệm rõ ràng cho từng cơ quan, từng người đứng đầu.
Mục tiêu của cơ chế điều hành này là để chuyển hóa quyết sách thành hành động, chủ trương thành kết quả cụ thể, bảo đảm việc hỗ trợ doanh nghiệp không chỉ nằm trên văn bản, mà thực sự đến được với từng doanh nghiệp, từng người dân, góp phần củng cố niềm tin thị trường và thúc đẩy sự phục hồi toàn diện của nền kinh tế.
Anh Tú
Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật
Gần bốn năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, nhiệm kỳ 2021–2026 đã chứng kiến những chuyển biến mạnh mẽ trong điều hành kinh tế vĩ mô của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới có nhiều biến động, sức ép lạm phát, đứt gãy chuỗi cung ứng, tác động từ đại dịch COVID-19 và các xung đột địa chính trị, Chính phủ đã kịp thời ban hành nhiều chủ trương, chính sách điều hành linh hoạt, sát thực tế, tạo đà cho doanh nghiệp từng bước phục hồi, phát triển.
Sự điều hành quyết liệt, đồng bộ đã góp phần giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn và đặc biệt là tháo gỡ kịp thời nhiều vướng mắc, khó khăn cho cộng đồng doanh nghiệp. Nhờ đó, niềm tin thị trường được củng cố, nội lực doanh nghiệp được phục hồi, năng lực cạnh tranh từng bước được cải thiện, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế – xã hội chung của đất nước.
Đặt doanh nghiệp làm trung tâm: Quan điểm chỉ đạo xuyên suốt, hành động nhất quán
Bước sang quý IV/2024, nền kinh tế toàn cầu tiếp tục tiềm ẩn nhiều yếu tố bất định. Xung đột địa chính trị kéo dài, xu hướng bảo hộ thương mại gia tăng, chuỗi cung ứng bị gián đoạn, lãi suất và giá nguyên liệu biến động đã khiến cho áp lực đối với cộng đồng doanh nghiệp ngày càng lớn. Ở Việt Nam, trong khi nền kinh tế vẫn duy trì được đà tăng trưởng tích cực, thì sức chống chịu và khả năng phục hồi của doanh nghiệp – đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) – vẫn đang bị bào mòn bởi nhiều "nút thắt" nội tại như khó tiếp cận tín dụng, chi phí sản xuất tăng cao, thiếu đơn hàng, và sự thiếu ổn định của thị trường tiêu thụ.
Trong bối cảnh đó, ngày 07/10/2024, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Công điện số 103/CĐ-TTg về việc hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh trong những tháng cuối năm 2024 và thời gian tiếp theo. Công điện không chỉ mang tính hiệu triệu mà còn thể hiện tinh thần hành động quyết liệt của Chính phủ, trong đó xác lập một định hướng điều hành xuyên suốt và nhất quán: “Lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, là chủ thể của phục vụ; hành động của Chính phủ phải hướng đến tháo gỡ thực chất, không dừng lại ở khẩu hiệu hay chủ trương.”
Đây là một tuyên bố chính trị mạnh mẽ, thể hiện quyết tâm chuyển hóa tư duy quản lý nhà nước sang tư duy phục vụ phát triển, từ hành chính quản lý sang hành động kiến tạo. Thông điệp này cũng khẳng định: doanh nghiệp không chỉ là đối tượng thụ hưởng chính sách, mà là chủ thể đồng kiến tạo thể chế, đồng hành cùng Chính phủ trong chiến lược phát triển đất nước.
Trong Công điện 103/CĐ-TTg, Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, địa phương phải chuyển từ "nói đúng" sang "làm đúng", từ "chính sách đúng" sang "thực thi hiệu quả", bảo đảm mỗi chỉ đạo về hỗ trợ doanh nghiệp phải được cụ thể hóa thành các hành động, quy trình, mô hình phối hợp có kết quả đo lường được.
Đặc biệt, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ và Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố được giao trực tiếp chỉ đạo triển khai các nhóm nhiệm vụ ưu tiên như: rà soát và bãi bỏ các rào cản thủ tục, kiến nghị điều chỉnh quy định chồng chéo, đơn giản hóa điều kiện tiếp cận đất đai – vốn – thị trường; chủ động gặp gỡ, lắng nghe ý kiến từ thực tiễn sản xuất – kinh doanh; đặt sự hài lòng và năng lực phát triển của doanh nghiệp làm thước đo cho hiệu quả quản trị công.
Quan điểm "doanh nghiệp là trung tâm" không chỉ hiện diện trong khẩu hiệu, mà đang dần thấm vào cách làm, cách ứng xử và cách xây dựng chính sách của các cấp chính quyền. Nhiều địa phương đã chủ động thiết lập Tổ công tác hỗ trợ doanh nghiệp, ban hành Quy chế đối thoại định kỳ với doanh nghiệp, xây dựng Hệ thống theo dõi, xử lý kiến nghị của doanh nghiệp theo thời gian thực, cho thấy sự chuyển động tích cực của cả hệ thống chính trị trong đồng hành cùng cộng đồng doanh nghiệp.
Chính phủ cũng nhấn mạnh: không thể có một môi trường đầu tư hấp dẫn nếu không có khung pháp lý ổn định, dễ hiểu, dễ tiếp cận. Vì vậy, mọi chính sách khi ban hành cần đặt trong mối liên hệ trực tiếp với chi phí tuân thủ, khả năng thực hiện và tính cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Từ trung ương đến địa phương, từ cơ quan quản lý đến người thực thi, cần thấm nhuần tư tưởng: “hỗ trợ doanh nghiệp chính là đầu tư cho tăng trưởng bền vững, cho việc làm, cho an sinh, và cho vị thế quốc gia trong nền kinh tế toàn cầu.”
Thủ tướng yêu cầu Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực tiếp chỉ đạo, giám sát và chịu trách nhiệm trong triển khai các nhóm giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Đặc biệt, phải ưu tiên hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa – khu vực dễ tổn thương nhất nhưng cũng giàu tiềm năng sáng tạo, năng động, linh hoạt – đồng thời hỗ trợ các doanh nghiệp đang gặp khó khăn về tài chính, thủ tục hành chính, đất đai, thuế phí, pháp lý dự án.
Không để tình trạng "chính sách trên giấy" – Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, địa phương phải đồng bộ từ tư duy chính sách đến thực thi hành chính. Những điểm nghẽn trong thực hiện phải được rà soát thường xuyên, công khai tiến độ giải quyết vướng mắc, tránh tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”, làm mất niềm tin thị trường.
Đặc biệt, các địa phương – với vai trò “cửa ngõ thực thi” – được yêu cầu thiết lập cơ chế đối thoại định kỳ với doanh nghiệp, trực tiếp gặp gỡ, lắng nghe, tháo gỡ khó khăn từ cơ sở, chứ không chờ doanh nghiệp phải kiến nghị lên Trung ương. Những chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện nào đồng hành thực chất, hỗ trợ hiệu quả cho doanh nghiệp – đó chính là thước đo rõ nhất cho năng lực điều hành trong giai đoạn hiện nay.
Tư duy "lấy doanh nghiệp làm trung tâm" không chỉ là sự thay đổi trong mục tiêu chính sách, mà còn là sự chuyển biến mạnh mẽ trong cách hành động, cách tiếp cận và cách tổ chức bộ máy hành chính phục vụ phát triển. Trong đó, đồng bộ, minh bạch, hiệu quả và kịp thời là bốn nguyên tắc cốt lõi xuyên suốt mọi tầng nấc điều hành.
Hoàn thiện chính sách, thúc đẩy nội lực doanh nghiệp
Thủ tướng yêu cầu Bộ Tài chính khẩn trương nghiên cứu, đề xuất các chính sách thuế phù hợp, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển bền vững, trong đó có việc gia hạn nộp thuế, giảm thuế, đẩy nhanh hoàn thuế giá trị gia tăng, nhất là với các doanh nghiệp xuất khẩu và sản xuất quy mô vừa.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư được giao trọng trách xây dựng cơ chế thúc đẩy phát triển doanh nghiệp bền vững, hoàn thiện thể chế khuyến khích đổi mới sáng tạo, thu hút đầu tư vào các ngành kinh tế mũi nhọn, hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi mô hình tăng trưởng gắn với phát triển xanh, tuần hoàn và số hóa.
Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp cùng Bộ Khoa học và Công nghệ tiếp tục hoàn thiện thể chế chuyển đổi số và trí tuệ nhân tạo, hướng tới xây dựng khung quản trị AI, quy tắc đạo đức và các tiêu chuẩn kỹ thuật trong môi trường pháp lý mới, tạo điều kiện cho doanh nghiệp số khởi nghiệp, phát triển nhanh, bền vững và an toàn.
Bộ Công Thương đẩy mạnh xúc tiến thương mại, hỗ trợ doanh nghiệp đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, mở rộng chuỗi cung ứng, tổ chức hội chợ, ngày hội tiêu dùng để kích cầu thị trường nội địa. Trong khi đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường thúc đẩy xây dựng cơ chế kinh tế tuần hoàn, tài nguyên tái sử dụng và các tiêu chí chuyển đổi xanh nhằm tạo dư địa phát triển bền vững dài hạn.
Tài chính – tín dụng: Gỡ điểm nghẽn cho sản xuất, kinh doanh
Trong suốt hơn một năm trở lại đây, một trong những vấn đề được cộng đồng doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, phản ánh mạnh mẽ nhất chính là khó khăn trong tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng. Mặc dù lãi suất điều hành đã được điều chỉnh giảm nhiều lần, nhưng chi phí vay thực tế, điều kiện tiếp cận, và các rào cản hành chính vẫn khiến nhiều doanh nghiệp chưa thể tiếp cận được nguồn vốn ưu đãi để duy trì hoặc mở rộng sản xuất, kinh doanh.
Trước thực trạng đó, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phải có những giải pháp mạnh mẽ, thực chất, chuyển từ tư duy ổn định tài chính sang tư duy “hỗ trợ tăng trưởng có kiểm soát”. Trong đó, trọng tâm là:
- Tiếp tục hạ mặt bằng lãi suất cho vay, đặc biệt là với các khoản vay ngắn hạn phục vụ sản xuất – kinh doanh;
- Cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ cho các doanh nghiệp khó khăn nhưng có khả năng phục hồi;
- Đẩy mạnh tín dụng có mục tiêu, hướng vào các lĩnh vực ưu tiên như sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, xuất khẩu, công nghệ cao, đổi mới sáng tạo...
Thủ tướng cũng yêu cầu triển khai ngay và hiệu quả gói tín dụng 140.000 tỷ đồng để hỗ trợ nhà ở xã hội – một lĩnh vực vừa có tác động lớn đến an sinh, vừa góp phần duy trì sức cầu trong nền kinh tế. Đồng thời, các chương trình tín dụng ưu đãi đối với lĩnh vực lâm sản, thủy sản – vốn đang chịu áp lực lớn từ biến đổi khí hậu, chi phí logistics và rào cản kỹ thuật quốc tế – cũng cần được khơi thông, giúp doanh nghiệp trong chuỗi nông nghiệp – thực phẩm có nguồn lực tái đầu tư, chuyển đổi mô hình sản xuất bền vững.
Cùng với đó, Ngân hàng Nhà nước được giao chủ trì phối hợp các bộ, ngành liên quan tháo gỡ vướng mắc về điều kiện cho vay, hồ sơ tín dụng, quy trình định giá tài sản bảo đảm. Trên thực tế, không ít doanh nghiệp “đói vốn” nhưng không thể vay vốn không phải vì thiếu tài sản, mà do gặp rào cản trong đánh giá rủi ro, định giá tài sản phi truyền thống (như tài sản trí tuệ, dữ liệu số...), hoặc do xếp hạng tín nhiệm thấp mà không có cơ chế hỗ trợ tiếp cận tín dụng linh hoạt.
Chính phủ cũng yêu cầu gia tăng ứng dụng công nghệ thông tin trong xét duyệt tín dụng, phát triển ngân hàng số, hệ thống tín dụng xanh, hỗ trợ doanh nghiệp trong lĩnh vực kinh tế tuần hoàn, chuyển đổi số, năng lượng tái tạo tiếp cận được nguồn vốn đặc thù, với điều kiện phù hợp và thời hạn dài hơn.
Về dài hạn, để gỡ điểm nghẽn tín dụng không chỉ là “bơm tiền” mà còn cần cải cách thể chế tài chính – tín dụng theo hướng minh bạch, linh hoạt, cá thể hóa theo loại hình doanh nghiệp, giảm thiểu tình trạng “thừa vốn – thiếu đầu ra”, qua đó tạo lập một hệ sinh thái tài chính thân thiện với doanh nghiệp, hỗ trợ đổi mới và phát triển bền vững.
Chính quyền các cấp chủ động đồng hành – Lắng nghe từ cơ sở
Trong bối cảnh nền kinh tế đang trong quá trình phục hồi và tăng tốc phát triển sau nhiều cú sốc toàn cầu, Chính phủ xác định: đồng hành cùng doanh nghiệp không chỉ là nhiệm vụ của các bộ, ngành trung ương mà còn là trách nhiệm then chốt của chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh, cấp huyện – nơi trực tiếp tiếp xúc với doanh nghiệp, người dân và xử lý các thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh.
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các địa phương chủ động thiết lập cơ chế đối thoại thường xuyên với cộng đồng doanh nghiệp, không chỉ thông qua hội nghị, hội thảo, mà phải bằng các kênh tiếp nhận ý kiến đa dạng, linh hoạt, kết hợp trực tuyến và trực tiếp, bảo đảm tiếp cận được cả các doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp địa phương, hợp tác xã, hộ kinh doanh.
Các vấn đề “nóng” như đất đai, thủ tục đầu tư, cấp phép xây dựng, chuyển mục đích sử dụng đất, giải phóng mặt bằng, pháp lý dự án, tiếp cận mặt bằng sản xuất... phải được đưa vào nội dung trao đổi định kỳ với doanh nghiệp, coi đó là kênh thông tin phản ánh thực tiễn quý báu, giúp địa phương điều chỉnh chính sách kịp thời, đúng hướng.
Đặc biệt, trong bối cảnh nhiều quy định pháp luật còn chồng chéo, chưa thống nhất hoặc đã lỗi thời so với thực tiễn phát triển kinh tế – xã hội, Thủ tướng yêu cầu chính quyền địa phương không né tránh, không đùn đẩy, mà phải chủ động tổng hợp các khó khăn vượt thẩm quyền, gửi báo cáo đầy đủ, có đề xuất giải pháp cụ thể lên cấp có thẩm quyền. Tránh tình trạng để các vướng mắc pháp lý kéo dài, gây cản trở hoạt động của doanh nghiệp, làm nản lòng nhà đầu tư và ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh chung của tỉnh, thành phố.
Một điểm mới trong chỉ đạo lần này của Chính phủ là yêu cầu xem xét việc giải quyết vướng mắc của doanh nghiệp như một tiêu chí đánh giá hiệu quả điều hành của chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện. Điều đó đồng nghĩa với việc “năng lực hỗ trợ doanh nghiệp” sẽ trở thành một chỉ số quản trị công, phản ánh rõ bản lĩnh lãnh đạo, chất lượng đội ngũ và tinh thần phục vụ của chính quyền địa phương.
Song hành với đó, các địa phương cần nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ đầu mối hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là các Trung tâm Xúc tiến đầu tư – Thương mại – Du lịch, Phòng Kinh tế hạ tầng, các Tổ công tác tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Việc thiết lập các đường dây nóng, nền tảng góp ý pháp lý trực tuyến, và hệ thống theo dõi việc xử lý kiến nghị doanh nghiệp theo thời gian thực là xu hướng cần khuyến khích mở rộng trong bối cảnh chuyển đổi số chính quyền.
Để đồng hành với doanh nghiệp không dừng ở lời hứa, mà thực sự trở thành năng lực hành động của địa phương, sự quyết liệt trong chỉ đạo, tính minh bạch trong điều hành, và sự sát sao trong giám sát là yếu tố tiên quyết.
Chỉ đạo sát sao từ Chính phủ – Phối hợp đồng bộ từ các Phó Thủ tướng
Để bảo đảm tính thống nhất và hiệu lực điều hành, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Hòa Bình được giao trực tiếp chỉ đạo, đôn đốc triển khai Công điện của Thủ tướng. Các Phó Thủ tướng khác theo lĩnh vực được phân công sẽ kiểm tra, xử lý các vướng mắc chuyên ngành, trực tiếp điều phối và giải quyết các nội dung do các bộ, địa phương kiến nghị.
Văn phòng Chính phủ có trách nhiệm theo dõi, tổng hợp, báo cáo tiến độ triển khai, nhắc nhở, đôn đốc, bảo đảm việc hỗ trợ doanh nghiệp không chỉ nằm trên giấy tờ, mà được hiện thực hóa bằng hành động cụ thể, thiết thực và kịp thời.
Chỉ đạo sát sao từ Chính phủ – Phối hợp đồng bộ từ các Phó Thủ tướng
Để bảo đảm các chủ trương hỗ trợ doanh nghiệp được thực thi một cách đồng bộ, hiệu quả và đi vào thực chất, Chính phủ đã thiết lập cơ chế chỉ đạo, điều phối liên ngành, liên cấp hết sức chặt chẽ, có sự phân công cụ thể giữa các Phó Thủ tướng Chính phủ.
Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Hòa Bình được Thủ tướng Chính phủ giao nhiệm vụ trực tiếp chỉ đạo, theo dõi, đôn đốc triển khai Công điện về hỗ trợ doanh nghiệp, bảo đảm các nội dung chỉ đạo từ Trung ương đến địa phương được thống nhất về nhận thức, quyết liệt trong hành động, không để xảy ra tình trạng “trên nóng, dưới lạnh” hay “trên đúng, dưới chờ”.
Cùng với đó, các Phó Thủ tướng khác theo lĩnh vực phụ trách – như tài chính, kinh tế, nội vụ, pháp luật, đầu tư – sẽ đóng vai trò điều phối chính sách chuyên ngành, giám sát việc triển khai tại các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, đồng thời trực tiếp xử lý, tháo gỡ những nội dung liên quan mà các bộ, ngành, địa phương báo cáo, kiến nghị. Cơ chế này không chỉ tăng tính liên thông trong điều hành mà còn bảo đảm các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp không bị phân mảnh, chồng chéo hay trùng lặp.
Văn phòng Chính phủ giữ vai trò là cơ quan đầu mối giúp Thủ tướng theo dõi tổng thể, thường xuyên tổng hợp, phân tích tình hình triển khai, kịp thời phát hiện các vướng mắc phát sinh và đề xuất phương án xử lý, đồng thời tổ chức các phiên họp chuyên đề, tổ công tác liên ngành, cuộc họp trực tuyến với các địa phương để giám sát tiến độ, đánh giá hiệu quả chính sách và thúc đẩy hành động cụ thể.
Việc triển khai Công điện không chỉ dừng lại ở cấp trung ương mà lan tỏa mạnh mẽ đến chính quyền địa phương, các tổ chức tín dụng, các sở, ban, ngành, và các tổ chức trung gian hỗ trợ doanh nghiệp. Các chỉ đạo được thiết lập theo cơ chế hành động theo mục tiêu, theo kết quả và gắn trách nhiệm rõ ràng cho từng cơ quan, từng người đứng đầu.
Mục tiêu của cơ chế điều hành này là để chuyển hóa quyết sách thành hành động, chủ trương thành kết quả cụ thể, bảo đảm việc hỗ trợ doanh nghiệp không chỉ nằm trên văn bản, mà thực sự đến được với từng doanh nghiệp, từng người dân, góp phần củng cố niềm tin thị trường và thúc đẩy sự phục hồi toàn diện của nền kinh tế.
Anh Tú
Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật