Một số quy định pháp luật trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý có hiệu lực từ 01/7/2025

01/07/2025
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In Gửi email

Từ ngày 01/7/2025, nhiều quy định về trợ giúp pháp lý được triển khai thực hiện, trong đó có thể kể đến một số quy định mới nổi bật như: thực hiện phân cấp, phân quyền trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý; mở rộng về diện người được trợ giúp pháp lý; sửa đổi, bổ sung về giấy tờ chứng minh của các đối tượng được mở rộng theo quy định của Luật Tư pháp người chưa thành niên và Luật Phòng, chống mua bán người; chỉnh sửa, bổ sung một số biểu mẫu về trợ giúp pháp lý.

         Phân cấp, phân quyền trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý
         Một số quy định về thực hiện phân cấp, phân quyền trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý sẽ có hiệu lực từ 01/7/2025 như: thẩm định, đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý; xác nhận vụ việc trợ giúp pháp lý tham gia tố tụng thành công; cấp phôi thẻ trợ giúp viên pháp lý và phôi thẻ cộng tác viên trợ giúp pháp lý, cụ thể như sau:
         (i) Nghị định số 121/2025/NĐ-CP ngày 11/6/2025 của Chính phủ quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp phân cấp cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức việc thực hiện thẩm định, đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý. Sở Tư pháp giúp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức thực hiện việc này theo quy định tại Điều 6 Thông tư số 09/2025/TT-BTP ngày 16/6/2025 của Bộ Tư pháp hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Sở Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân thuộc Ủy ban nhân dân xã, phường, đặc khu trong lĩnh vực tư pháp.
        (ii) Chuyển thẩm quyền xác nhận vụ việc trợ giúp pháp lý tham gia tố tụng thành công từ Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý cho Sở Tư pháp thực hiện theo quy định tại Thông tư số 11/2025/TT-BTP ngày 24/6/2025 của Bộ Tư pháp sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số điều của các thông tư thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
        (iii) Chuyển thẩm quyền cấp phôi thẻ trợ giúp viên pháp lý và phôi thẻ cộng tác viên trợ giúp pháp lý cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Sở Tư pháp giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện. Như vậy, kể từ ngày 01/7/2025, Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý không thực hiện cấp phôi thẻ trợ giúp viên pháp lý và phôi thẻ cộng tác viên trợ giúp pháp lý. Các địa phương chủ động cấp thẻ theo mẫu do Bộ Tư pháp ban hành tại Thông tư số 08/2017/TT-BTP ngày 15/11/2017 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý và hướng dẫn giấy tờ trong hoạt động trợ giúp pháp lý (Mẫu TP-TGPL-08 và Mẫu TP-TGPL-09).
       Mở rộng diện người được trợ giúp pháp lý
       Mở rộng diện người được trợ giúp pháp lý là một trong những nhiệm vụ quan trọng về trợ giúp pháp lý được chỉ đạo tại Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. Theo đó, cần nghiên cứu để “mở rộng đối tượng được trợ giúp pháp lý phù hợp với điều kiện của đất nước”. Thực hiện nhiệm vụ được giao, Bộ Tư pháp đã nghiên cứu sửa đổi quy định về một số đối tượng thuộc diện được trợ giúp pháp lý tại Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, trong đó có các đối tượng là người chưa thành niên và người bị mua bán, đồng thời, tham mưu đưa các nội dung này vào Luật Tư pháp người chưa thành niên và Luật Phòng, chống mua bán người.
        Tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV vào tháng 11/2024, Quốc hội đã thông qua Luật Phòng, chống mua bán người có hiệu lực từ ngày 01/7/2025, Luật Tư pháp người chưa thành niên có hiệu lực từ ngày 01/01/2026. Theo đó, mở rộng đối tượng được trợ giúp pháp lý gồm cả: “nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân và người dưới 18 tuổi đi cùng nạn nhân” được trợ giúp pháp lý mà không cần kèm điều kiện có khó khăn về tài chính. Luật Tư pháp người chưa thành niên quy định các đối tượng được trợ giúp pháp lý bao gồm: “người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội, bị hại, người làm chứng, người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng, phạm nhân”. Việc mở rộng diện người được trợ giúp pháp lý đã góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật.
       Sửa đổi, bổ sung quy định về giấy tờ chứng minh của một số đối tượng thuộc diện được trợ giúp pháp lý
        Ngày 25/6/2025, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 11/2025/TT-BTP sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số điều của các thông tư thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, trong đó có sửa đổi, bổ sung các quy định về giấy tờ chứng minh của các đối tượng đã được mở rộng theo quy định của Luật Tư pháp người chưa thành niên và Luật Phòng, chống mua bán người. Tại Điều 5 Thông tư số 11/2025/TT-BTP ngày 25/6/2025 quy định sửa đổi, bổ sung Điều 33 Thông tư số 08/2017/TT-BTP ngày 15/11/2017 như sau:
         (i) Chứng minh thư nhân dân, căn cước công dân không còn được sử dụng là giấy tờ chứng minh độ tuổi của trẻ em;
         (ii) Giấy tờ chứng minh người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội, bị hại, người làm chứng, người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng, phạm nhân là văn bản của cơ quan, người có thẩm quyền xác định người đó thuộc một trong những diện người này;
        (iii) Giấy tờ, tài liệu chứng minh là nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân của hành vi mua bán người và người dưới 18 tuổi đi cùng theo quy định của Luật Phòng, chống mua bán người là văn bản của cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật phòng, chống mua bán người xác định người đó thuộc một trong những diện người này.
        Sửa đổi một số biểu mẫu trong hoạt động trợ giúp pháp lý
Một số biểu mẫu về trợ giúp pháp lý đã được sửa đổi để phù hợp với việc mở rộng diện người được trợ giúp pháp lý: Sổ thụ lý, theo dõi vụ việc trợ giúp pháp lý - Mẫu 01-TP-TGPL và Báo cáo công tác trợ giúp pháp lý 06 tháng/01 năm - Mẫu số 12-TP-TGPL. Bên cạnh đó, 06 biểu mẫu ban hành kèm theo Thông tư số 10/2023/TT-BTP ngày 29/12/2023 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp (Đơn đề nghị làm cộng tác viên trợ giúp pháp lý - Mẫu TP-TGPL-10; Đơn đề nghị cấp lại thẻ cộng tác viên trợ giúp pháp lý - Mẫu TP-TGPL-11; Đơn yêu cầu trợ giúp pháp lý - Mẫu 02-TP-TGPL; Đơn khiếu nại - Mẫu 03-TP-TGPL; Đơn đề nghị thay đổi người thực hiện trợ giúp pháp lý - Mẫu 04-TP-TGPL; Đơn rút yêu cầu trợ giúp pháp lý - Mẫu 05-TP-TGPL) đã được sửa đổi theo hướng sửa đổi cụm từ “Số CMND/Số thẻ căn cước công dân/Số định danh” thành “Số thẻ căn cước công dân/Số thẻ căn cước/Số định danh cá nhân”.
Nguyễn Diệu Hương
Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý

Xem thêm »