25/09/2025
Xem cỡ chữ
Đọc bài viết
In
Gửi email
Một số nội dung cơ bản của Nghị Quyết số 206/2025/QH15 về cơ chế đặc biệt xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật1. Sự cần thiết ban hành nghị quyết
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm tới công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật và đạt được nhiều thành tựu, Việt Nam đã thiết lập được khung cấu trúc pháp luật cơ bản, khá đầy đủ trong nhiều lĩnh vực. Đến nay, hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay với khoảng trên 200 luật, bộ luật cùng các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật đang còn hiệu lực bao phủ hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội, đáp ứng được nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội trong 40 năm đầu của thời kỳ đổi mới, gắn liền với quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, thể chế, pháp luật vẫn là “điểm nghẽn” của “điểm nghẽn”, trở thành lực cản đối với yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới. Hệ thống pháp luật chưa đủ linh hoạt để tháo gỡ các vướng mắc từ thực tiễn. Tư duy xây dựng pháp luật chậm được đổi mới, không theo kịp với sự thay đổi nhanh chóng của tình hình mới. Một số chủ trương, định hướng lớn của Đảng chưa được thể chế hóa kịp thời, đầy đủ. Chất lượng pháp luật chưa theo kịp yêu cầu thực tiễn. Vẫn còn quy định chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu rõ ràng, cản trở việc thực thi, không thuận lợi cho việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo, thu hút và khơi thông nguồn lực đầu tư trong và ngoài nước. Việc phân quyền, phân cấp chưa triệt để, thủ tục hành chính còn rườm rà. Chậm nghiên cứu, ban hành chính sách, pháp luật điều chỉnh đối với những vấn đề mới phát sinh, chưa tạo khung khổ pháp lý thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới.
Để tháo gỡ “điểm nghẽn” của “điểm nghẽn”, thời gian qua, Chính phủ đã có nhiều văn bản chỉ đạo và tổ chức triển khai các nhiệm vụ liên quan đến rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật cũng đã được ban hành với các quy định cụ thể về việc rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, đề xuất sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật khi phát hiện các khó khăn, vướng mắc; đồng thời, quy định cơ chế sửa đổi, bổ sung, ban hành văn bản trong trường hợp cấp bách để giải quyết vấn đề phát sinh trong thực tiễn có thể thực hiện theo trình tự, thủ tục rút gọn hoặc trình tự, thủ tục đặc biệt khi được sự đồng ý của cấp có thẩm quyền. Tuy nhiên, các quy định này vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu giải quyết khó khăn, vướng mắc phát sinh nhanh, cấp bách từ thực tiễn, đặc biệt là trong một số lĩnh vực quan trọng để phát triển kinh tế và tăng trưởng như đầu tư công, xây dựng, đất đai, môi trường, tài chính, ngân sách… khi có sự chồng chéo, xung đột pháp luật hoặc khi chưa có quy định hoặc quy định không rõ ràng. Chính phủ đã có nhiều biện pháp nhằm tháo gỡ những tồn tại, hạn chế nêu trên, tuy nhiên, thẩm quyền chỉ giới hạn trong việc xử lý các văn bản thuộc thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, đối với các vướng mắc do quy định của luật, nghị quyết, pháp luật thì chỉ Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội sửa đổi hoặc cho phép áp dụng cơ chế đặc biệt.
Xuất phát các khó khăn nêu trên, nhằm đảm bảo thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30 tháng 4 năm 2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 206/2025/QH15 về cơ chế đặc biệt xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật để xử lý các vướng mắc đang “không thể hoặc chưa thể” sửa bằng quy trình xây dựng pháp luật thông thường theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
2. Phạm vi điều chỉnh
Theo quy định tại khoản 1 Điều 1, Nghị quyết này quy định về tiêu chí xác định, nguyên tắc, phương án, quy trình và trách nhiệm trong việc xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, để hạn chế việc lạm dụng quy trình “đặc biệt” trong xử lý, tháo gỡ các điểm nghẽn, tại khoản 2 Điều 1 cũng đã đặt ra quy định đối với những văn bản chứa đựng các nội dung quan trọng, bao gồm các nội dung về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân mà theo Hiến pháp phải do luật định; việc hạn chế quyền con người, quyền công dân; tội phạm và hình phạt; tố tụng tư pháp; nguyên tắc cơ bản về tổ chức bộ máy thì việc xử lý sẽ chỉ được thực hiện bằng phương án giải thích luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội theo quy định tại Điều 60 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; hướng dẫn áp dụng văn bản quy phạm pháp luật theo quy định tại Điều 61 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn để quy định vấn đề mới, sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế quy định hiện hành theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
3. Tiêu chí xác định
Việc xác định khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật là bước đi đầu tiên, có ý nghĩa quan trọng, là cơ sở để đề xuất các phương án xử lý, tháo gỡ một cách hiệu quả và có trọng tâm. Nhằm bảo đảm tính thống nhất trong việc nhận diện và áp dụng, Điều 2 của Nghị quyết quy định cụ thể tiêu chí xác định khó khăn, vướng mắc do quy định pháp luật, làm cơ sở để sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật, từ đó tháo gỡ những “điểm nghẽn” về pháp luật đang cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp, đồng thời nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Theo đó, các khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật phải là nguyên nhân gây kìm hãm, cản trở, ách tắc phát triển kinh tế - xã hội, được xác định theo một trong các tiêu chí sau:
Thứ nhất, quy định mâu thuẫn, chồng chéo trong cùng một văn bản quy phạm pháp luật hoặc giữa các văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ hai, quy định của văn bản quy phạm pháp luật không rõ ràng, có nhiều cách hiểu khác nhau, không hợp lý, không khả thi, gây khó khăn trong áp dụng, thực hiện pháp luật.
Thứ ba, quy định của văn bản quy phạm pháp luật tạo gánh nặng chi phí tuân thủ; chưa có quy định hoặc có quy định của văn bản quy phạm pháp luật nhưng hạn chế việc đổimới sáng tạo, phát triển động lực tăng trưởng mới, khơi thông nguồn lực, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hội nhập quốc tế.
4. Phương án xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật
Thực tế cho thấy, khi gặp vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật, không phải lúc nào cũng cần phải sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới. Trong nhiều trường hợp, những vướng mắc đó xuất phát từ quy định chưa rõ ràng, đa nghĩa, khó hiểu, hoặc có nhiều cách hiểu, cách vận dụng khác nhau, gây lúng túng cho cơ quan thực thi và người dân. Khi đó, nếu có thể giải thích hoặc hướng dẫn áp dụng văn bản quy phạm pháp luật thì sẽ sử dụng hình thức đó, nhằm giúp các cơ quan, tổ chức có liên quan hiểu và áp dụng đúng quy định, bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống pháp luật, giúp xử lý nhanh các vấn đề thực tiễn và không tốn kém chi phí, nhân lực để sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật. Từ thực tiễn đó, trên cơ sở các khó khăn, vướng mắc được xác định tại Điều 2 của Nghị quyết, Điều 4 đã đặt quy định về các phương án xử lý khó khăn, vướng mắc gồm: (1) Giải thích hoặc hướng dẫn áp dụng văn bản quy phạm pháp luật theo quy định tại Điều 60 và Điều 61 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; (2) Ban hành văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh hoặc sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành.
Trong đó, đối với trường hợp xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật theo phương án ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì phải được xử lý theo trình tự, thủ tục quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Đây là phương án xử lý chung, ưu tiên thực hiện để đảm bảo tính ổn định, thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, để đảm bảo tính linh hoạt, kịp thời tháo gỡ những “điểm nghẽn” trong thời gian luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội chưa được sửa đổi, bổ sung theo phương án này, nghị quyết quy định phương án xử lý đặc biệt theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 4, cụ thể:
- Chính phủ được ban hành nghị quyết quy phạm pháp luật để điều chỉnh một số quy định có liên quan tại luật, nghị quyết của Quốc hội do Chính phủ trình, báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội tại phiên họp, kỳ họp gần nhất. Trong trường hợp nội dung sửa đổi, bổ sung dẫn đến đồng thời phải sửa đổi, bổ sung các luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội không do Chính phủ trình thì cơ quan chủ trì soạn thảo phải xin ý kiến của cơ quan trình luật, pháp lệnh, nghị quyết đó và Chính phủ báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội trước khi ban hành. Trường hợp ban hành nghị quyết của Chính phủ có nội dung điều chỉnh vấn đề chưa được luật, nghị quyết của Quốc hội quy định hoặc tác động lớn đến kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại thì phải xin ý kiến cơ quan có thẩm quyền của Đảng trước khi ban hành. Trường hợp ban hành nghị quyết của Chính phủ dẫn đến đồng thời phải sửa đổi, bổ sung nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ, thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ thì quy định nội dung sửa đổi, bổ sung đó ngay trong nghị quyết của Chính phủ
- Đối với các khó khăn, vướng mắc do quy định tại luật, nghị quyết của Quốc hội không do Chính phủ trình và không thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 4, Ủy ban Thường vụ Quốc hội được ban hành nghị quyết quy phạm pháp luật để điều chỉnh một số quy định của luật, nghị quyết và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất..
Việc quy định phương án xử lý “đặc biệt” tại khoản 2 và khoản 3 Điều này là một giải pháp tình thế nhưng cần thiết, có tính linh hoạt cao, nhằm tránh tình trạng “chờ sửa luật”, gây ách tắc hoạt động quản lý, đầu tư, kinh doanh và ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội. Cơ chế này không phải là mới mà đã có tiền lệ và được quy định trong một số văn bản như Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Nghị quyết số 190/2025/QH15 ngày 19 tháng 02 năm 2025 của Quốc hội về xử lý một số vấn đề liên quan đến sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước, dự thảo Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, dự thảo Luật Năng lượng nguyên tử... Tuy nhiên, các quy định hiện hành chủ yếu giới hạn trong một số lĩnh vực cụ thể như tổ chức bộ máy, phân quyền, phân cấp hoặc khoa học công nghệ, năng lượng nguyên tử mà chưa bao quát hết các lĩnh vực ưu tiên, cấp bách khác.
Do đây là phương án xử lý “đặc biệt” nên Nghị quyết đã đặt ra quy định các nghị quyết ban hành phải được đánh số, ký hiệu riêng để phân biệt với các nghị quyết thông thường khác (số, ký hiệu của nghị quyết bao gồm: số được ghi bằng chữ số Ả Rập, thứ tự được đánh liên tiếp theo các năm, bắt đầu từ 66.1; năm ban hành nghị quyết, ký hiệu của Nghị quyết), bảo đảm thuận tiện cho theo dõi và xử lý các vấn đề liên quan phát sinh trong tổ chức thi hành.
Việc ban hành nghị quyết của Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong các trường hợp trên nhằm xử lý tạm thời trong những trường hợp cấp bách, khi chưa kịp thời sửa đổi, bổ sung luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, không phải thay thế quy trình lập pháp chính thức, để tránh nguy cơ “tạm thời nhưng kéo dài”, Nghị quyết ấn định thời điểm hết hiệu lực của các nghị quyết này là trước ngày 01/3/2027. Quy định này sẽ tạo cơ sở để các cơ quan liên quan khẩn trương chuẩn bị sửa đổi, bổ sung luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, một cách đầy đủ, bài bản.
5. Về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật “đặc biệt” để xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật
Trên cơ sở các phương án xử lý khó khăn, vướng mắc được quy định tại Điều 4 của Nghị quyết, Điều 5 của Nghị quyết đã đưa ra quy định quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật để xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật. Đây là vấn đề quan trọng, để vừa bảo đảm tính linh hoạt nhưng cũng bảo đảm chặt chẽ, vừa đáp ứng yêu cầu khẩn trương nhưng phải rõ trách nhiệm của các chủ thể, nhất là cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật để xử lý khó khăn, vướng mắc. Do đó, Nghị quyết 206/2025/QH15 đã quy định trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành nghị quyết xử lý khó khăn, vướng mắc như sau:
+ Cơ quan chủ trì soạn thảo xây dựng hồ sơ dự thảo nghị quyết gửi Bộ Tư pháp để thành lập Hội đồng thẩm định độc lập thẩm định trước khi trình Chính phủ, đồng thời đăng tải lên cổng thông tin điện tử của cơ quan chủ trì soạn thảo và Cổng Pháp luật quốc gia. Hồ sơ gửi thẩm định gồm: Dự thảo tờ trình; dự thảo nghị quyết; bản so sánh quy định của dự thảo nghị quyết với các quy định hiện hành và lý do đề xuất điều chỉnh; báo cáo tiếp thu, giải trình ý kiến của các bộ, ngành có liên quan và tài liệu khác (nếu có).
+ Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ dự thảo nghị quyết, Hội đồng thẩm định độc lập có trách nhiệm thẩm định văn bản. Do việc ban hành nghị quyết của Chính phủ để điều chỉnh một số quy định có liên quan tại luật, nghị quyết của Quốc hội là giải pháp tình thế đặc biệt, có tính chất “vượt khung”, bởi vậy, cần thiết phải có Hội đồng thẩm định độc lập, thực hiện theo cơ chế hoạt động đặc biệt hơn so với quy định về thẩm định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 để đánh giá kỹ lưỡng, khách quan, đa chiều và bảo đảm hiệu quả của phương án này trong thực tiễn. Hội đồng thẩm định độc lập chính là bộ lọc kiểm soát quyền lực hiệu quả, giúp ngăn chặn nguy cơ lạm dụng cơ chế xử lý khó khăn, vướng mắc để ban hành nghị quyết của Chính phủ sửa đổi, bổ sung luật, nghị quyết của Quốc hội.
Trường hợp dự thảo nghị quyết chưa đủ điều kiện trình Chính phủ, cơ quan chủ trì soạn thảo có trách nhiệm nghiên cứu, tiếp thu chỉnh lý dự thảo nghị quyết và gửi hồ sơ đến Bộ Tư pháp để tổ chức thẩm định lại.
+ Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo cáo của Hội đồng thẩm định độc lập, cơ quan chủ trì soạn thảo chỉnh lý, hoàn thiện hồ sơ dự thảo nghị quyết trình Chính phủ xem xét, thông qua. Hồ sơ trình gồm: Các tài liệu quy định tại điểm a khoản này, báo cáo thẩm định và báo cáo tiếp thu, giải trình ý kiến thẩm định.
+ Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ dự thảo nghị quyết quy định tại khoản này, Chính phủ xem xét, thông qua.
Đồng thời với việc trao quyền linh hoạt cho Chính phủ, dự thảo Nghị quyết cũng quy định rõ cơ chế kiểm soát và giám sát nhằm tránh lạm dụng trong quá trình thực hiện. Theo đó, bên cạnh cơ chế thẩm định độc lập như trên, dự thảo Nghị quyết quy định Chính phủ có trách nhiệm báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội tại phiên họp, kỳ họp gần nhất về việc ban hành nghị quyết để điều chỉnh luật, nghị quyết của Quốc hội nhằm xử lý khó khăn, vướng mắc. Điều này bảo đảm tính minh bạch, trách nhiệm giải trình và kiểm soát quyền lực trong việc xử lý các vấn đề phát sinh từ quy định của pháp luật./.
Nguyễn Quốc Anh
Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý
1. Sự cần thiết ban hành nghị quyết
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm tới công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật và đạt được nhiều thành tựu, Việt Nam đã thiết lập được khung cấu trúc pháp luật cơ bản, khá đầy đủ trong nhiều lĩnh vực. Đến nay, hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay với khoảng trên 200 luật, bộ luật cùng các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật đang còn hiệu lực bao phủ hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội, đáp ứng được nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội trong 40 năm đầu của thời kỳ đổi mới, gắn liền với quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, thể chế, pháp luật vẫn là “điểm nghẽn” của “điểm nghẽn”, trở thành lực cản đối với yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới. Hệ thống pháp luật chưa đủ linh hoạt để tháo gỡ các vướng mắc từ thực tiễn. Tư duy xây dựng pháp luật chậm được đổi mới, không theo kịp với sự thay đổi nhanh chóng của tình hình mới. Một số chủ trương, định hướng lớn của Đảng chưa được thể chế hóa kịp thời, đầy đủ. Chất lượng pháp luật chưa theo kịp yêu cầu thực tiễn. Vẫn còn quy định chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu rõ ràng, cản trở việc thực thi, không thuận lợi cho việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo, thu hút và khơi thông nguồn lực đầu tư trong và ngoài nước. Việc phân quyền, phân cấp chưa triệt để, thủ tục hành chính còn rườm rà. Chậm nghiên cứu, ban hành chính sách, pháp luật điều chỉnh đối với những vấn đề mới phát sinh, chưa tạo khung khổ pháp lý thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới.
Để tháo gỡ “điểm nghẽn” của “điểm nghẽn”, thời gian qua, Chính phủ đã có nhiều văn bản chỉ đạo và tổ chức triển khai các nhiệm vụ liên quan đến rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật cũng đã được ban hành với các quy định cụ thể về việc rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, đề xuất sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật khi phát hiện các khó khăn, vướng mắc; đồng thời, quy định cơ chế sửa đổi, bổ sung, ban hành văn bản trong trường hợp cấp bách để giải quyết vấn đề phát sinh trong thực tiễn có thể thực hiện theo trình tự, thủ tục rút gọn hoặc trình tự, thủ tục đặc biệt khi được sự đồng ý của cấp có thẩm quyền. Tuy nhiên, các quy định này vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu giải quyết khó khăn, vướng mắc phát sinh nhanh, cấp bách từ thực tiễn, đặc biệt là trong một số lĩnh vực quan trọng để phát triển kinh tế và tăng trưởng như đầu tư công, xây dựng, đất đai, môi trường, tài chính, ngân sách… khi có sự chồng chéo, xung đột pháp luật hoặc khi chưa có quy định hoặc quy định không rõ ràng. Chính phủ đã có nhiều biện pháp nhằm tháo gỡ những tồn tại, hạn chế nêu trên, tuy nhiên, thẩm quyền chỉ giới hạn trong việc xử lý các văn bản thuộc thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, đối với các vướng mắc do quy định của luật, nghị quyết, pháp luật thì chỉ Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội sửa đổi hoặc cho phép áp dụng cơ chế đặc biệt.
Xuất phát các khó khăn nêu trên, nhằm đảm bảo thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30 tháng 4 năm 2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 206/2025/QH15 về cơ chế đặc biệt xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật để xử lý các vướng mắc đang “không thể hoặc chưa thể” sửa bằng quy trình xây dựng pháp luật thông thường theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
2. Phạm vi điều chỉnh
Theo quy định tại khoản 1 Điều 1, Nghị quyết này quy định về tiêu chí xác định, nguyên tắc, phương án, quy trình và trách nhiệm trong việc xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, để hạn chế việc lạm dụng quy trình “đặc biệt” trong xử lý, tháo gỡ các điểm nghẽn, tại khoản 2 Điều 1 cũng đã đặt ra quy định đối với những văn bản chứa đựng các nội dung quan trọng, bao gồm các nội dung về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân mà theo Hiến pháp phải do luật định; việc hạn chế quyền con người, quyền công dân; tội phạm và hình phạt; tố tụng tư pháp; nguyên tắc cơ bản về tổ chức bộ máy thì việc xử lý sẽ chỉ được thực hiện bằng phương án giải thích luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội theo quy định tại Điều 60 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; hướng dẫn áp dụng văn bản quy phạm pháp luật theo quy định tại Điều 61 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn để quy định vấn đề mới, sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế quy định hiện hành theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
3. Tiêu chí xác định
Việc xác định khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật là bước đi đầu tiên, có ý nghĩa quan trọng, là cơ sở để đề xuất các phương án xử lý, tháo gỡ một cách hiệu quả và có trọng tâm. Nhằm bảo đảm tính thống nhất trong việc nhận diện và áp dụng, Điều 2 của Nghị quyết quy định cụ thể tiêu chí xác định khó khăn, vướng mắc do quy định pháp luật, làm cơ sở để sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật, từ đó tháo gỡ những “điểm nghẽn” về pháp luật đang cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp, đồng thời nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Theo đó, các khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật phải là nguyên nhân gây kìm hãm, cản trở, ách tắc phát triển kinh tế - xã hội, được xác định theo một trong các tiêu chí sau:
Thứ nhất, quy định mâu thuẫn, chồng chéo trong cùng một văn bản quy phạm pháp luật hoặc giữa các văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ hai, quy định của văn bản quy phạm pháp luật không rõ ràng, có nhiều cách hiểu khác nhau, không hợp lý, không khả thi, gây khó khăn trong áp dụng, thực hiện pháp luật.
Thứ ba, quy định của văn bản quy phạm pháp luật tạo gánh nặng chi phí tuân thủ; chưa có quy định hoặc có quy định của văn bản quy phạm pháp luật nhưng hạn chế việc đổimới sáng tạo, phát triển động lực tăng trưởng mới, khơi thông nguồn lực, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hội nhập quốc tế.
4. Phương án xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật
Thực tế cho thấy, khi gặp vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật, không phải lúc nào cũng cần phải sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới. Trong nhiều trường hợp, những vướng mắc đó xuất phát từ quy định chưa rõ ràng, đa nghĩa, khó hiểu, hoặc có nhiều cách hiểu, cách vận dụng khác nhau, gây lúng túng cho cơ quan thực thi và người dân. Khi đó, nếu có thể giải thích hoặc hướng dẫn áp dụng văn bản quy phạm pháp luật thì sẽ sử dụng hình thức đó, nhằm giúp các cơ quan, tổ chức có liên quan hiểu và áp dụng đúng quy định, bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống pháp luật, giúp xử lý nhanh các vấn đề thực tiễn và không tốn kém chi phí, nhân lực để sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật. Từ thực tiễn đó, trên cơ sở các khó khăn, vướng mắc được xác định tại Điều 2 của Nghị quyết, Điều 4 đã đặt quy định về các phương án xử lý khó khăn, vướng mắc gồm: (1) Giải thích hoặc hướng dẫn áp dụng văn bản quy phạm pháp luật theo quy định tại Điều 60 và Điều 61 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; (2) Ban hành văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh hoặc sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành.
Trong đó, đối với trường hợp xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật theo phương án ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì phải được xử lý theo trình tự, thủ tục quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Đây là phương án xử lý chung, ưu tiên thực hiện để đảm bảo tính ổn định, thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, để đảm bảo tính linh hoạt, kịp thời tháo gỡ những “điểm nghẽn” trong thời gian luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội chưa được sửa đổi, bổ sung theo phương án này, nghị quyết quy định phương án xử lý đặc biệt theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 4, cụ thể:
- Chính phủ được ban hành nghị quyết quy phạm pháp luật để điều chỉnh một số quy định có liên quan tại luật, nghị quyết của Quốc hội do Chính phủ trình, báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội tại phiên họp, kỳ họp gần nhất. Trong trường hợp nội dung sửa đổi, bổ sung dẫn đến đồng thời phải sửa đổi, bổ sung các luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội không do Chính phủ trình thì cơ quan chủ trì soạn thảo phải xin ý kiến của cơ quan trình luật, pháp lệnh, nghị quyết đó và Chính phủ báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội trước khi ban hành. Trường hợp ban hành nghị quyết của Chính phủ có nội dung điều chỉnh vấn đề chưa được luật, nghị quyết của Quốc hội quy định hoặc tác động lớn đến kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại thì phải xin ý kiến cơ quan có thẩm quyền của Đảng trước khi ban hành. Trường hợp ban hành nghị quyết của Chính phủ dẫn đến đồng thời phải sửa đổi, bổ sung nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ, thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ thì quy định nội dung sửa đổi, bổ sung đó ngay trong nghị quyết của Chính phủ
- Đối với các khó khăn, vướng mắc do quy định tại luật, nghị quyết của Quốc hội không do Chính phủ trình và không thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 4, Ủy ban Thường vụ Quốc hội được ban hành nghị quyết quy phạm pháp luật để điều chỉnh một số quy định của luật, nghị quyết và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất..
Việc quy định phương án xử lý “đặc biệt” tại khoản 2 và khoản 3 Điều này là một giải pháp tình thế nhưng cần thiết, có tính linh hoạt cao, nhằm tránh tình trạng “chờ sửa luật”, gây ách tắc hoạt động quản lý, đầu tư, kinh doanh và ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội. Cơ chế này không phải là mới mà đã có tiền lệ và được quy định trong một số văn bản như Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Nghị quyết số 190/2025/QH15 ngày 19 tháng 02 năm 2025 của Quốc hội về xử lý một số vấn đề liên quan đến sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước, dự thảo Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, dự thảo Luật Năng lượng nguyên tử... Tuy nhiên, các quy định hiện hành chủ yếu giới hạn trong một số lĩnh vực cụ thể như tổ chức bộ máy, phân quyền, phân cấp hoặc khoa học công nghệ, năng lượng nguyên tử mà chưa bao quát hết các lĩnh vực ưu tiên, cấp bách khác.
Do đây là phương án xử lý “đặc biệt” nên Nghị quyết đã đặt ra quy định các nghị quyết ban hành phải được đánh số, ký hiệu riêng để phân biệt với các nghị quyết thông thường khác (số, ký hiệu của nghị quyết bao gồm: số được ghi bằng chữ số Ả Rập, thứ tự được đánh liên tiếp theo các năm, bắt đầu từ 66.1; năm ban hành nghị quyết, ký hiệu của Nghị quyết), bảo đảm thuận tiện cho theo dõi và xử lý các vấn đề liên quan phát sinh trong tổ chức thi hành.
Việc ban hành nghị quyết của Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong các trường hợp trên nhằm xử lý tạm thời trong những trường hợp cấp bách, khi chưa kịp thời sửa đổi, bổ sung luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, không phải thay thế quy trình lập pháp chính thức, để tránh nguy cơ “tạm thời nhưng kéo dài”, Nghị quyết ấn định thời điểm hết hiệu lực của các nghị quyết này là trước ngày 01/3/2027. Quy định này sẽ tạo cơ sở để các cơ quan liên quan khẩn trương chuẩn bị sửa đổi, bổ sung luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, một cách đầy đủ, bài bản.
5. Về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật “đặc biệt” để xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật
Trên cơ sở các phương án xử lý khó khăn, vướng mắc được quy định tại Điều 4 của Nghị quyết, Điều 5 của Nghị quyết đã đưa ra quy định quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật để xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật. Đây là vấn đề quan trọng, để vừa bảo đảm tính linh hoạt nhưng cũng bảo đảm chặt chẽ, vừa đáp ứng yêu cầu khẩn trương nhưng phải rõ trách nhiệm của các chủ thể, nhất là cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật để xử lý khó khăn, vướng mắc. Do đó, Nghị quyết 206/2025/QH15 đã quy định trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành nghị quyết xử lý khó khăn, vướng mắc như sau:
+ Cơ quan chủ trì soạn thảo xây dựng hồ sơ dự thảo nghị quyết gửi Bộ Tư pháp để thành lập Hội đồng thẩm định độc lập thẩm định trước khi trình Chính phủ, đồng thời đăng tải lên cổng thông tin điện tử của cơ quan chủ trì soạn thảo và Cổng Pháp luật quốc gia. Hồ sơ gửi thẩm định gồm: Dự thảo tờ trình; dự thảo nghị quyết; bản so sánh quy định của dự thảo nghị quyết với các quy định hiện hành và lý do đề xuất điều chỉnh; báo cáo tiếp thu, giải trình ý kiến của các bộ, ngành có liên quan và tài liệu khác (nếu có).
+ Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ dự thảo nghị quyết, Hội đồng thẩm định độc lập có trách nhiệm thẩm định văn bản. Do việc ban hành nghị quyết của Chính phủ để điều chỉnh một số quy định có liên quan tại luật, nghị quyết của Quốc hội là giải pháp tình thế đặc biệt, có tính chất “vượt khung”, bởi vậy, cần thiết phải có Hội đồng thẩm định độc lập, thực hiện theo cơ chế hoạt động đặc biệt hơn so với quy định về thẩm định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 để đánh giá kỹ lưỡng, khách quan, đa chiều và bảo đảm hiệu quả của phương án này trong thực tiễn. Hội đồng thẩm định độc lập chính là bộ lọc kiểm soát quyền lực hiệu quả, giúp ngăn chặn nguy cơ lạm dụng cơ chế xử lý khó khăn, vướng mắc để ban hành nghị quyết của Chính phủ sửa đổi, bổ sung luật, nghị quyết của Quốc hội.
Trường hợp dự thảo nghị quyết chưa đủ điều kiện trình Chính phủ, cơ quan chủ trì soạn thảo có trách nhiệm nghiên cứu, tiếp thu chỉnh lý dự thảo nghị quyết và gửi hồ sơ đến Bộ Tư pháp để tổ chức thẩm định lại.
+ Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo cáo của Hội đồng thẩm định độc lập, cơ quan chủ trì soạn thảo chỉnh lý, hoàn thiện hồ sơ dự thảo nghị quyết trình Chính phủ xem xét, thông qua. Hồ sơ trình gồm: Các tài liệu quy định tại điểm a khoản này, báo cáo thẩm định và báo cáo tiếp thu, giải trình ý kiến thẩm định.
+ Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ dự thảo nghị quyết quy định tại khoản này, Chính phủ xem xét, thông qua.
Đồng thời với việc trao quyền linh hoạt cho Chính phủ, dự thảo Nghị quyết cũng quy định rõ cơ chế kiểm soát và giám sát nhằm tránh lạm dụng trong quá trình thực hiện. Theo đó, bên cạnh cơ chế thẩm định độc lập như trên, dự thảo Nghị quyết quy định Chính phủ có trách nhiệm báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội tại phiên họp, kỳ họp gần nhất về việc ban hành nghị quyết để điều chỉnh luật, nghị quyết của Quốc hội nhằm xử lý khó khăn, vướng mắc. Điều này bảo đảm tính minh bạch, trách nhiệm giải trình và kiểm soát quyền lực trong việc xử lý các vấn đề phát sinh từ quy định của pháp luật./.
Nguyễn Quốc Anh
Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý