Trợ giúp pháp lý trong quá trình xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân

28/08/2025
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In Gửi email

Triển khai Điều 106 Luật Xử lý vi phạm hành chính, ngày 13/12/2022 Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh số 03/2022/UBTVQH15 về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại tòa án nhân dân. Pháp lệnh này quy định trình tự, thủ tục Tòa án nhân dân xem xét, quyết định việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (sau đây gọi là biện pháp xử lý hành chính); trình tự, thủ tục xem xét, quyết định việc hoãn, miễn chấp hành, giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành phần thời gian áp dụng biện pháp xử lý hành chính còn lại; khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị và giải quyết khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị trong việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính. Mới đây, để phù hợp với tình hình thực tế trong bối cảnh sắp xếp bộ máy, xây dựng chính quyền địa phương hai cấp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh số 08/2025/UBTVQH15 sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh số 03/2022/UBTVQH15, có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2025. Bài viết tổng hợp, phân tích những nội dung trợ giúp pháp lý trong quá trình xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại tòa án nhân dân.

1.Nội dung trợ giúp pháp lý trong quy định về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại tòa án nhân dân

Một trong những nguyên tắc xem xét, quyết định việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính là bảo đảm quyền được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị đề nghị xử lý hành chính, tại khoản 3 Điều 2 Pháp lệnh quy định: “Người bị đề nghị thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý được đề nghị tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý. Trường hợp người bị đề nghị là người chưa thành niên mà không có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp thì Tòa án yêu cầu tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý cử trợ giúp viên pháp lý, luật sư theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý hoặc Đoàn luật sư phân công tổ chức hành nghề luật sư cử luật sư để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ”.
Hiện nay, người được trợ giúp pháp lý bao gồm: Người có công với cách mạng; trẻ em; người thuộc hộ nghèo; người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo; người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi; nạn nhân mua bán người, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân; người thuộc một trong các trường hợp sau đây có khó khăn về tài chính (là người thuộc hộ cận nghèo hoặc người đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng): cha đẻ, mẹ đẻ, vợ, chồng, con của liệt sĩ và người có công nuôi dưỡng khi liệt sĩ còn nhỏ; người nhiễm chất độc da cam; người cao tuổi; người khuyết tật; nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình; người bị nhiễm HIV. Theo đó, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước sẽ cử người thực hiện trợ giúp pháp lý cho người thuộc diện được trợ giúp pháp lý trong quá trình xem xét áp dụng biện pháp xử lý hành chính theo quy định tại Pháp lệnh số 03/2022/UBTVQH15.
Tại Điều 7 Pháp lệnh quy định về chi phí, lệ phí trong việc xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính, theo đó quy định trong việc xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính gồm: Chi phí cho người phiên dịch, người dịch thuật; chi phí cho luật sư, trợ giúp viên pháp lý là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị đề nghị; chi phí giám định và các khoản chi phí khác theo quy định của pháp luật. Đồng thời, quy định trách nhiệm chi trả các chi phí trên, trong đó chi phí cho luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý, trợ giúp viên pháp lý do tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý cử thì thực hiện theo quy định pháp luật về trợ giúp pháp lý.
Điều 13 Pháp lệnh quy định về kiểm tra hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính có quy định về việc Thẩm phán có văn bản yêu cầu tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý cử trợ giúp viên pháp lý, luật sư trong trường hợp người bị đề nghị là người chưa thành niên quy định tại khoản 3 Điều 2 của Pháp lệnh này.
  1. Hình thức trợ giúp pháp lý khi thực hiện trợ giúp pháp lý trong quá trình xem xét, quyết định các biện pháp xử lý hành chính tại tòa án nhân dân
Theo quy định tại Điều 27, Điều 31, Điều 320, Điều 33 Luật Trợ giúp pháp lý, các hình thức trợ giúp pháp lý bao gồm: Tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng và đại diện ngoài tố tụng. Trong vụ việc trợ giúp pháp lý hình thức trợ giúp pháp lý là gì phụ thuộc nhiều yếu tố nhưng trước hết là yêu cầu của người được trợ giúp pháp lý. Nếu người được trợ giúp pháp lý yêu cầu tư vấn pháp luật thì người thực hiện trợ giúp pháp lý sẽ hướng dẫn, đưa ra ý kiến, giúp soạn thảo văn bản liên quan đến tranh chấp, khiếu nại, vướng mắc pháp luật; hướng dẫn giúp các bên hòa giải, thương lương, thống nhất hướng giải quyết vụ việc. Nếu người được trợ giúp pháp lý yêu cầu tham gia tố tụng thì người thực hiện trợ giúp pháp lý sẽ tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trước người, cơ quan tiến hành tố tụng. Nếu người được trợ giúp pháp lý yêu cầu đại diện ngoài tố tụng thì người thực hiện trợ giúp pháp lý sẽ đại diện cho họ trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Do đó, trong trường hợp này cũng vậy, hình thức trợ giúp pháp lý trước hết sẽ phụ thuộc vào yêu cầu trợ giúp pháp lý của người được trợ giúp pháp lý.
Tiếp đến cần phải xem xét trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại tòa án nhân dân:
Về thẩm quyền: Về thẩm quyền được giao cho Tòa án nhân dân khu vực nơi có trụ sở cơ quan của người đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính; Tòa án nhân dân khu vực nơi người bị đề nghị có hành vi vi phạm trong trường hợp người đề nghị là Trưởng Công an cấp xã. Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền xét lại quyết định của Tòa án nhân dân khu vực bị khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị.
Về trình tự, thủ tục: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa án thụ lý hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính, Tòa án phải ra quyết định, đối với vụ việc cần có thời gian kiểm tra, đánh giá, tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn hoặc các vụ việc phức tạp khác thì thời hạn này có thể kéo dài nhưng không quá 30 ngày. Sau khi được phân công, Thẩm phán sẽ kiểm tra hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính. Thẩm phán có văn bản yêu cầu tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý cử trợ giúp viên pháp lý, luật sư trong trường hợp người bị đề nghị là người chưa thành niên quy định tại khoản 3 Điều 2 của Pháp lệnh này. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày được phân công, căn cứ vào kết quả kiểm tra hồ sơ, Thẩm phán phải quyết định việc mở phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính.
Thành phần phiên họp gồm: Người tiến hành phiên họp gồm có Thẩm phán và Thư ký phiên họp; người tham gia phiên họp gồm có người đề nghị hoặc người được ủy quyền; Kiểm sát viên; người bị đề nghị, người đại diện hợp pháp của người bị đề nghị (nếu có); cha mẹ hoặc người giám hộ của người bị đề nghị là người chưa thành niên; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị đề nghị.
Trong trình tự, thủ tục phiên họp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị đề nghị trình bày ý kiến về căn cứ áp dụng biện pháp xử lý hành chính hoặc biện pháp giáo dục dựa vào cộng đồng để thay thế cho biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng; nhân thân của người bị đề nghị; tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ; hình thức, biện pháp đã giáo dục; đề nghị hoặc không đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính; thời hạn áp dụng biện pháp xử lý hành chính hoặc biện pháp giáo dục dựa vào cộng đồng và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị đề nghị tranh luận các vấn đề có liên quan với người đề nghị hoặc người được ủy quyền. Kết quả đầu ra của phiên họp là Tòa án sẽ ra một trong các quyết định áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp xử lý hành chính; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ việc xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính hoặc quyết định áp dụng biện pháp giáo dục dựa vào cộng đồng.
Như đã trình bày ở trên, chúng ta có thể thấy rằng tại Pháp lệnh đã quy định rõ tư cách tham gia phiên họp và trách nhiệm của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị đề nghị trong việc trình bày ý kiến và tranh luận về căn cứ áp dụng biện pháp xử lý hành chính hoặc biện pháp giáo dục dựa vào cộng đồng để thay thế cho biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng; nhân thân của người bị đề nghị; tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ; hình thức, biện pháp đã giáo dục; đề nghị hoặc không đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính; thời hạn áp dụng biện pháp xử lý hành chính hoặc biện pháp giáo dục dựa vào cộng đồng…. Cùng với những quy định trên, đối chiếu về chủ thể thực hiện và nội hàm của các hình thức trợ giúp pháp lý được quy định của Luật Trợ giúp pháp lý tại Điều 31 (tham gia tố tụng), Điều 32 (tư vấn pháp luật), Điều 33 (đại diện ngoài tố tụng), cụ thể như sau:
Hình thức trợ giúp pháp lý tư vấn pháp luật được quy định tại khoản 1 Điều 32 Luật Trợ giúp pháp lý: “Người thực hiện trợ giúp pháp lý tư vấn pháp luật cho người được trợ giúp pháp lý bằng việc hướng dẫn, đưa ra ý kiến, giúp soạn thảo văn bản liên quan đến tranh chấp, khiếu nại, vướng mắc pháp luật; hướng dẫn giúp các bên hòa giải, thương lượng, thống nhất hướng giải quyết vụ việc”.
Hình thức trợ giúp pháp lý tham gia tố tụng được quy định tại khoản 1 Điều 31 Luật Trợ giúp pháp lý: “Trợ giúp viên pháp lý, luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này và pháp luật về tố tụng”.
Hình thức trợ giúp pháp lý đại diện ngoài tố tụng được quy định tại khoản 1 Điều 33 Luật Trợ giúp pháp lý: “Trợ giúp viên pháp lý, luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý đại diện ngoài tố tụng cho người được trợ giúp pháp lý trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền”.
Bên cạnh đó, tại khoản 1 Điều 2 Pháp lệnh số 02/2022/UBTVQH15 xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng quy định: “Hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, cản trở hoạt động giải quyết vụ việc của cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của Pháp lệnh Trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân và Pháp lệnh Trình tự, thủ tục Tòa án nhân dân xem xét, quyết định việc đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc mà không phải là tội phạm thì bị áp dụng xử phạt vi phạm hành chính như hành vi cản trở hoạt động tố tụng theo quy định của Pháp lệnh này”.
Như vậy, xét về nội hàm hoạt động, chủ thể thực hiện thì việc tham gia phiên họp xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại tòa án nhân dân theo quy định tại Pháp lệnh số 03/2022/UBTVQH15 của Trợ giúp viên pháp lý và luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý được thực hiện dưới hình thức tham gia tố tụng. Trong trường hợp này, khi nhận được yêu cầu trợ giúp pháp lý, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thuộc Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương sẽ ra quyết định cử người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được trợ giúp pháp lý đang bị đề nghị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính./.
Thanh Trịnh
Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý

 

Xem thêm »