Phân quyền cho chính quyền địa phương cấp tỉnh 02 nhiệm vụ về báo cáo viên pháp luật, chính sách xã hội hóa công tác PBGDPL
(1) Về Báo cáo viên pháp luật[1]
Đối với Báo cáo viên pháp luật cấp tỉnh: Thẩm quyền công nhận, miễn nhiệm báo cáo viên pháp luật cấp tỉnh được thực hiện theo quy định của Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật. Nghĩa là thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Trên cơ sở thẩm quyền được giao tại Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật và quy định tại Điều 12 của Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025
[2], Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành quy định về trình tự, thủ tục công nhận, miễn nhiệm báo cáo viên pháp luật cấp tỉnh tại địa phương mình.
T
heo quy định của Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012
[3], trình tự, thủ tục công nhận, miễn nhiệm báo cáo viên pháp luật các cấp (trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện) do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định và hiện nay đang được thực hiện thống nhất theo quy định tại Thông tư số 10/2026/TT-BTP
[4]. Thực hiện Nghị định số 121/2025/NĐ-CP, trình tự, thủ tục công nhận, miễn nhiệm báo cáo viên pháp luật cấp tỉnh sẽ thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Sở Tư pháp được giao nhiệm vụ tham mưu Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp quy định trình tự, thủ tục công nhận, miễn nhiệm báo cáo viên pháp luật tại địa phương
[5]. Quy định này được ban hành để phù hợp với chủ trương đẩy mạnh và thực hiện triệt để, tối đa nguyên tắc phân cấp, phân quyền theo Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương, bảo đảm xây dựng, phát triển đội ngũ báo cáo viên pháp luật theo hướng chú trọng chất lượng, bám sát thực tiễn công tác PBGDPL trong từng lĩnh vực, từng địa bàn.
Tương tự báo cáo viên pháp luật cấp tỉnh, việc công nhận, miễn nhiệm và quy định trình tự, thủ tục công nhận, miễn nhiệm báo cáo viên pháp luật của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan này
[6], thay vì thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp đang được quy định theo Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật và Thông tư số 10/2016/TT-BTP. Qua đó tạo cơ sở pháp lý cho các bộ, cơ quan trung ương chủ động xây dựng, phát triển đội ngũ báo cáo viên pháp luật của bộ, ngành bám sát yêu cầu thực tiễn của công tác PBGDPL.
(2) Về xã hội hóa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật[7]
Nghị định số 121/2025/NĐ-CP đã phân quyền cho Hội đồng nhân dân cấp tinh ban hành chính sách hỗ trợ xã hội hóa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tại địa phương. Theo đó căn cứ tình hình kinh tế - xã hội của từng thời kỳ, phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định cụ thể chính sách hỗ trợ đối với cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân tham gia thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật trong phạm vi địa phương mình. Nếu theo quy định tại Điều 4 của Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 thì Chính phủ là cơ quan duy nhất có thẩm quyền quy định cụ thể chính sách hỗ trợ đối với cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân tham gia thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật.
Sở Tư pháp thực hiện 04 nhóm nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể về PBGDPL
Ngoài các nhiệm vụ và quyền hạn về PBGDPL được thiết kế chung trong các nhiệm vụ và quyền hạn về tổ chức thi hành pháp luật, Sở Tư pháp có các nhiệm vụ và quyền hạn về PBGDPL, cụ thể như sau:
(1) Xây dựng, trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành các chương trình, kế hoạch, đề án về phổ biến, giáo dục pháp luật và tổ chức thực hiện sau khi các chương trình, kế hoạch, đề án được ban hành.
(2) Thực hiện nhiệm vụ của cơ quan thường trực Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật cấp tỉnh; tổ chức thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, truyền thông chính sách và dự thảo văn bản quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Sở Tư pháp.
(3) Tham mưu Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định trình tự, thủ tục công nhận, miễn nhiệm báo cáo viên pháp luật cấp tỉnh tại địa phương; giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng, quản lý, tập huấn, đề xuất các giải pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật tại địa phương.
(4) Theo dõi, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, truyền thông chính sách và dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, việc triển khai Ngày Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, việc xây dựng, quản lý và khai thác tủ sách pháp luật ở cấp xã và các cơ quan, đơn vị khác theo quy định pháp luật.
Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện 03 nhóm nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể về PBGDPL
Nhiệm vụ và quyền hạn của Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã trong lĩnh vực PBGDPL được quy định chung trong nhóm các nhiệm vụ và quyền hạn về tổ chức thi hành pháp luật
[8]. Ngoài các nhiệm vụ như giúp Ủy ban nhân dân cấp xã theo dõi, hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ, kiểm tra về công tác PBGDPL; sơ kết, tổng kết, thực hiện thống kê, báo cáo, theo dõi thi hành, rà soát, hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật về PBGDPL..., Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã có các nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể về PBGDPL
[9] như:
(1) Xây dựng, trình Ủy ban nhân dân cấp xã ban hành chương trình, kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật và tổ chức thực hiện sau khi chương trình, kế hoạch được ban hành.
(2) Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp xã theo dõi, đôn đốc việc triển khai công tác truyền thông chính sách, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan, tổ chức thuộc chính quyền địa phương cấp xã chủ trì soạn thảo theo quy định pháp luật; tổ chức thực hiện, theo dõi, đôn đốc, khen thưởng việc thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; triển khai Ngày Pháp luật Việt Nam.
(3) Xây dựng, tập huấn, quản lý và sử dụng có hiệu quả đội ngũ tuyên truyền viên pháp luật theo quy định pháp luật.