Xem cỡ chữ
Đọc bài viết
In
Gửi email
ĐỔI MỚI TOÀN DIỆN CÔNG TÁC XÂY DỰNG PHÁP LUẬT THEO TINH THẦN NGHỊ QUYẾT 66 NQ/TW: TỪ CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG ĐẾN HÀNH ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊKỷ niệm Ngày Pháp luật Việt Nam 9/11, hưởng ứng thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng pháp luật
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định rằng pháp luật là công cụ quan trọng để hiện thực hóa đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng, đồng thời là cầu nối giữa Nhà nước và Nhân dân. Trong bối cảnh đất nước đang chuyển mình mạnh mẽ để bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình phát triển bứt phá, giàu mạnh, hùng cường dưới sự lãnh đạo của Đảng. Pháp luật giờ đây không chỉ để điều chỉnh mà còn để kiến tạo phát triển, để mở đường cho cái mới, bảo vệ và khuyến khích đổi mới sáng tạo.
Nghị quyết số 66NQ/TW của Bộ Chính trị đã khẳng định vai trò của pháp luật như nền tảng của quản trị quốc gia, là “đột phá của đột phá” trong hoàn thiện thể chế phát triển, khơi thông nguồn lực, tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Trước yêu cầu đó, đòi hỏi phải đổi mới cơ bản, toàn diện cả tư duy, nội dung và phương pháp trong xây dựng và thi hành pháp luật.
Đường lối của Đảng về đổi mới công tác xây dựng pháp luật
Có thể thấy, thời gian gần đây, trong từng nhịp đập của cuộc sống đang thấm đẫm tinh thần đổi mới của Đảng về công tác xây dựng và thực thi pháp luật. Bởi vì, hơn bao giờ hết, pháp luật phải là kim chỉ nam cho các hoạt động của Nhà nước và xã hội, là công cụ cho mỗi tiến bộ xã hội và đổi mới trong mọi mặt của đời sống chính trị, kinh tế - xã hội. Pháp luật phải theo kịp những vận động xã hội và định hướng cho vận động xã hội, cho các bước phát triển của đất nước.
Ngày Pháp luật Việt Nam không chỉ là dịp nhằm tôn vinh Hiến pháp, đề cao tinh thần thượng tôn pháp luật, khơi dậy ý thức pháp lý của công dân, mà còn là cơ hội để nhìn nhận lại sự gắn kết giữa chủ trương của Đảng và hành động của hệ thống chính trị trong công tác xây dựng pháp luật. Từ chủ trương đổi mới công tác xây dựng pháp luật đến hành động hoàn thiện pháp luật, mỗi bước đi đều đòi hỏi tư duy đổi mới, cách tiếp cận sáng tạo và sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ chức và người dân để pháp luật thực sự trở thành công cụ sắc bén của đổi mới để phục vụ Nhân dân, phục vụ đất nước.
Có thể nhận diện quá trình đổi mới công tác xây dựng pháp luật qua các yếu tố sau đây:
Thứ nhất, đổi mới toàn diện công tác xây dựng pháp luật phải bắt đầu đổi mới từ tư duy xây dựng pháp luật, đổi mới nhận thức và hành động để pháp luật là “đột phá của đột phá” trong hoàn thiện thể chế phát triển, khơi thông nguồn lực, tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển nhanh và bền vững của đất nước.
Như Tổng Bí thư Tô Lâm đã từng nhấn mạnh tại lễ kỷ niệm 110 năm ngày sinh cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh: “Chỉ có đổi mới tư duy, đổi mới cách tiếp cận và dám làm điều chưa có tiền lệ, chúng ta mới có thể đưa đất nước tiến xa hơn”. Phải có sự bứt phá, đột phá chứ không chỉ bám theo lối mòn, đi theo tiền lệ, quan điểm dám nghĩ, dám làm, hành động quyết liệt và dứt khoát để thoát ra khỏi những khuôn sáo đã lỗi thời trở thành kim chỉ nam cho mọi bước đi, từ dự báo chính sách, soạn thảo, thẩm định đến ban hành và phổ biến, giáo dục pháp luật.
Trong bối cảnh đó, đổi mới công tác dựng pháp luật không chỉ đơn thuần là hoàn thiện văn bản pháp luật mà là việc xây dựng pháp luật để giải quyết các khó khăn, vướng mắc, rào cản, điểm nghẽn thực tiễn, tạo nền tảng pháp lý vững chắc, hình thành lợi thế cạnh tranh và huy động nguồn lực phát triển. Các quy định của pháp luật phải định hướng cho sự phát triển trong tương lai, dự báo và đánh giá được rủi ro cũng như kết quả sẽ đạt được. Công tác xây dựng pháp luật cần phải bám sát thực tiễn, dựa trên đánh giá tác động toàn diện, phản ánh đúng thực tiễn và tiên liệu những mối quan hệ xã hội mới phát sinh, hướng tới bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện kỷ nguyên số, kinh tế tri thức và xã hội thông minh.
Thứ hai, đổi mới công tác xây dựng pháp luật phải gắn liền với hiện đại hóa quy trình xây dựng pháp. Hiện đại hóa quy trình để mỗi một quy phạm pháp luật đều có vị trí điều chỉnh quan hệ xã hội nhất định trong một cơ thể pháp luật sống động. Mỗi văn bản pháp luật ra đời không chỉ là kết quả cuối cùng mà trong cả quá trình xây dựng nó đã có dấu ấn với xã hội, được sự quan tâm của xã hội để bảo đảm tính thống nhất, không mâu thuẫn, chồng chéo và khả thi.
Quy trình lập pháp hiện đại không chỉ dừng ở soạn thảo, thẩm định và ban hành, mà phải bao gồm cả khâu dự báo tác động chính sách, lấy ý kiến rộng rãi của người dân, doanh nghiệp, giới chuyên gia và các tổ chức xã hội. Sự phối hợp nhịp nhàng giữa cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp và các tổ chức chính trị xã hội là yếu tố cốt lõi để bảo đảm tính đồng bộ, nhất quán và minh bạch của hệ thống pháp luật.
Trên cơ sở đó, chỉ khi toàn bộ hệ thống chính trị cùng chung tay từ khâu dự báo, xây dựng, thẩm định, ban hành đến giám sát và phổ biến pháp luật, chúng ta mới có thể bảo đảm chất lượng thể chế, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản trị quốc gia.
Trong kỷ nguyên số, việc chuyển đổi số trong xây dựng và thi hành pháp luật là bước đi tất yếu. Cổng Pháp luật Quốc gia ra đời trở thành dấu ấn mới, là kênh thông tin chính thống, tập trung, tin cậy, thống nhất trên môi trường số giúp cơ quan, tổ chức, người dân, doanh nghiệp có thể tra cứu, tìm hiểu thông tin pháp luật một cách thuận tiện, chính xác và đầy đủ; cung cấp toàn diện các thông tin liên quan đến xây dựng và thực thi pháp luật, bảo đảm thông tin, dữ liệu về pháp luật đáp ứng yêu cầu "đúng, đủ, sạch, sống" và công khai, minh bạch, thân thiện, dễ tiếp cận. Đây cũng là kênh tương tác đa chiều hiệu quả trên môi trường số để lấy ý kiến đóng góp của các chuyên gia, nhà khoa học và người trong quá trình xây dựng pháp luật, qua đó nâng cao tính minh bạch, dân chủ và hiệu quả phản biện xã hội trong xây dựng và thi hành pháp luật.
Việc chuyển đổi số toàn bộ quy trình lập pháp thể hiện bước tiến chiến lược trong việc hiện đại hóa quản trị quốc gia, thúc đẩy minh bạch, tăng cường hiệu lực thi hành và đưa pháp luật đến gần hơn với người dân, doanh nghiệp. Mỗi dự thảo văn bản giờ đây đều được số hóa, lưu lại toàn bộ quy trình hình thành và chỉnh lý, tạo nên “dấu chân số” thể hiện sự tham gia, đồng hành và đóng góp thiết thực của xã hội vào quá trình xây dựng pháp luật.
Thứ ba, đổi mới công tác xây dựng pháp luật phải đi đôi với nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật. Họ cần có kiến thức pháp lý vững chắc, hiểu biết sâu rộng về kinh tế- xã hội và am hiểu công nghệ số, có phẩm chất đạo đức công vụ, đồng thời luôn phát triển tư duy đổi mới, chủ động tiếp nhận phản biện và ứng dụng dữ liệu khoa học trong quá trình xây dựng pháp luật
Không những vậy, sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan – từ Bộ Tư pháp, Chính phủ, Quốc hội đến các tổ chức chính trị – xã hội và giới chuyên gia – đóng vai trò hết sức quan trọng. Nhờ đó, mỗi văn bản pháp luật được xây dựng minh bạch hơn, dựa trên bằng chứng thực tiễn, đồng thời thể hiện sự kết tinh trí tuệ của các nhà khoa học pháp lý, chuyên gia và nhân dân.
Cuối cùng, những luận điểm này không phải là nhận định riêng lẻ mà là sự cụ thể hóa hợp lý từ định hướng chiến lược của Đảng, vốn đã được khẳng định nhiều lần trong các văn kiện, nghị quyết và chỉ đạo của lãnh đạo cấp cao, nhằm hướng tới một nền lập pháp hiện đại, dân chủ và hiệu quả.
Thứ tư, đẩy mạnh chuyển đổi số trong công tác phổ biến và giáo dục pháp luật giúp người dân và doanh nghiệp tiếp cận pháp luật, nắm rõ các thông tin pháp luật mới, tham gia nghiên cứu, góp ý và chủ động thực thi quyền và nghĩa vụ của mình một cách tự nguyện. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật được xây dựng thành cơ sở dữ liệu dung chung trên Cổng Pháp luật Quốc gia, các tính năng hướng dẫn tra cứu và sử dụng, biến pháp luật trở thành công cụ sống động, gần gũi và phục vụ trực tiếp cho các cơ quan nhà nước, tổ chức, doanh nghiệp và người dân. Điều này không chỉ nâng cao hiệu lực quản trị mà còn tăng cường niềm tin, đồng thuận và trách nhiệm xã hội, trách nhiệm của mỗi cán bộ, công chức và người dân.
Từ chủ trương của Đảng đến hành động của hệ thống chính trị, quá trình đổi mới công tác xây dựng pháp luật theo Nghị quyết 66NQ/TW là minh chứng cho mối liên hệ chặt chẽ giữa đường lối, pháp luật và thực thi. Mỗi bước đi, từ đề xuất, xây dựng chính sách, soạn thảo dự thảo đến ban hành văn bản, đều hướng tới mục tiêu nâng cao chất lượng thể chế, bảo đảm pháp luật minh bạch, đồng bộ và khả thi. Việc ứng dụng công nghệ số giúp công tác xây dựng pháp luật thuận lợi hơn; các quy định pháp luật trở nên dễ tiếp cận, gần gũi với người dân và doanh nghiệp, đồng thời tăng cường trách nhiệm giải trình của các cơ quan trong hệ thống chính trị.
Trong tương lai, khi mọi khâu trong quy trình xây dựng pháp luật đều được số hóa, ứng dụng dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo, pháp luật Việt Nam sẽ trở thành công cụ dự báo, phòng ngừa và định hướng phát triển xã hội, không chỉ phản ứng với thực tiễn mà còn thúc đẩy sáng tạo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đây chính là cách thức hiện thực hóa tinh thần Nghị quyết 66NQ/TW, đồng thời biến pháp luật thành nền tảng vững chắc để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện đại, minh bạch, phục vụ Nhân dân và bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước.
Ngày Pháp luật Việt Nam không chỉ là dịp cả nước thẻ hiện tình cảm với pháp luật, mà còn là cơ hội để toàn bộ hệ thống chính trị, từ Đảng, Quốc hội, Chính phủ, hệ thống Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp đến các tổ chức, đoàn thể và người dân, cùng nhìn nhận trách nhiệm, phối hợp hành động để pháp luật thực sự là công cụ hiện thực hóa chủ trương của Đảng, bảo vệ quyền và lợi ích của Nhân dân, đồng thời thúc đẩy sự phát triển bền vững và ổn định xã hội./.
ThS. Nguyễn Duy Tiến
Vụ trưởng Vụ Pháp luật và Tư pháp,
Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội