Những nội dung cơ bản về hòa giải viên nhân dân của Trung Quốc và đề xuất hoàn thiện quy định về hòa giải viên ở cơ sở của Việt Nam

04/09/2025
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In Gửi email

Luật Hòa giải Nhân dân của nước Cộng hòa nhân dân Trung Quốc được ban hành ngày 30/10/2010 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2011). Nội dung của Luật Hòa giải nhân dân Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng so với Luật Hòa giải ở cơ sở của Việt Nam được ban hành năm 2013, trong đó đặc biệt là các quy định về đội ngũ hòa giải viên. Nhiều quy định về hòa giải viên nhân dân của Trung Quốc có thể tham khảo để áp dụng tại Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả công tác hòa giải trong cộng đồng dân cư một cách hiệu quả.

Những nội dung cơ bản về hòa giải viên nhân dân tại Luật Hòa giải nhân dân Trung Quốc

          Luật Hòa giải nhân dân Trung Quốc bắt nguồn từ nền văn hóa truyền thống của Trung Quốc, hòa giải nhân dân được thực hiện bởi các hòa giải viên ở cấp cơ sở hoạt động tại các Ủy ban hòa giải nhân dân. Hòa giải viên nhân dân là người được lựa chọn tại cuộc họp thôn, cuộc họp tổ dân cư hoặc cuộc họp đại diện thôn. Tại Trung Quốc ngoài các Ủy ban hòa giải nhân dân được thiết lập ở thôn, thì các tổ chức kinh tế hoặc các học viện công cũng có thể thiết lập Ủy ban hòa giải nhân dân của tổ chức mình. Hòa giải viên Ủy ban hòa giải dân dân của đơn vị kinh tế/học viện công sẽ do cuộc họp đại diện cán bộ, nhân viên hay công đoàn của tổ chức đó lựa chọn. Tiêu chuẩn của hòa giải viên nhân dân phải là công dân đủ tuổi trưởng thành, có trình độ giáo dục nhất định, am hiểu chính sách, có kiến thức pháp luật, là những người công bằng, công tâm, hết lòng vì công tác hòa giải nhân dân. Nhiệm kỳ hoạt động của Ủy ban hòa giải nhân dân là 03 năm, các hòa giải viên trong Ủy ban có thể được lựa chọn tham gia vào Ủy ban tiếp theo sau khi hết hạn nhiệm kỳ.

Về quyền lợi: Hòa giải viên nhân dân được nhận trợ cấp trong thời gian thực hiện hòa giải; trường hợp bị thương trong quá trình hòa giải thì sẽ được trợ giúp thiết yếu liên quan đến chăm sóc y tế và sinh sống của cá nhân đó; trường hợp bị chết do thực hiện công tác hòa giải thì nhân thân sẽ được đền bù và các chính sách ưu đãi khác theo quy định của pháp luật liên quan.

Về nghĩa vụ: Hòa giải viên nhân dân phải tuân thủ nguyên tắc hòa giải; không được yêu cầu các bên chi trả chi phí hòa giải; có thể bị sa thải khi vi phạm một trong những quy định sau: Thiên vị một bên; lăng nhục một bên; đòi hỏi hoặc nhận tiền hay hiện vật, hay vì những tư lợi trái pháp luật khác; hoặc tiết lộ bí mật cá nhân hoặc bí mật thương mại của một bên liên quan.

Sự giống nhau về quy định hòa giải viên cơ sở của Việt Nam và hòa giải viên nhân dân của Trung Quốc

So với Luật Hòa giải ở cơ sở của Việt Nam, Luật Hòa giải nhân dân Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng về chế định hòa giải viên. Cụ thể: Hòa giải viên phải là người được nhân dân tín nhiệm (thông qua hình thức bầu/hoặc lựa chọn tại cuộc họp ở thôn, tổ dân phố); phải là người có phẩm chất đạo đức tốt, tâm huyết với công tác hòa giải, có hiểu biết pháp luật. Trong cơ cấu tổ chức của Ủy ban hòa giải (ở Trung Quốc) và Tổ hòa giải (ở Việt Nam) phải có 01 thành viên nữ, ở vùng dân tộc thiểu số thì phải có hòa giải viên là người dân tộc thiểu số. Trong quá trình hòa giải, hòa giải viên phải tuân theo những nguyên tắc nhất định về sự tự nguyện của các bên, bảo đảm công bằng, bình đẳng, tuân thủ pháp luật; hòa giải viên có thể mời họ hàng, hàng xóm hoặc người có liên quan, cá nhân đại diện cho các tổ chức tham gia vào quá trình hòa giải nếu được sự đồng ý của các bên mâu thuẫn, tranh chấp. Trong trường hợp mâu thuẫn, tranh chấp có thể trở nên trầm trọng hơn thì hòa giải viên phải báo cáo/thông báo cho tổ chức/cá nhân có thẩm quyền để xử lý. Hoạt động hòa giải là miễn phí, hòa giải viên không được yêu cầu các bên chi trả chi phí hòa giải; các bên có quyền lựa chọn hòa giải viên tiến hành hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp của mình. Hòa giải viên được trợ cấp/hỗ trợ khi thực hiện hòa giải hoặc trong quá trình hòa giải bị thương, ảnh hưởng sức khỏe thì hỗ trợ chi phí liên quan hoặc thân nhân của hòa giải viên bị chết cũng được nhận các khoản hỗ trợ. Kết quả hòa giải thành sẽ được Tòa án công nhận nếu đáp ứng được các điều kiện theo luật định.

Sự khác nhau về quy định hòa giải viên cơ sở của Việt Nam và hòa giải viên nhân dân của Trung Quốc

Do có những đặc điểm riêng về văn hóa, dân cư, điều kiện kinh tế - xã hội, mức độ phát triển của mỗi quốc gia nên quy định về hòa giải viên của hai quốc gia cũng có sự khác nhau.

(1) Về tiêu chuẩn: Luật Hòa giải nhân dân Trung Quốc quy định rõ hòa giải viên phải là công dân đủ tuổi trưởng thành; còn Luật Hòa giải ở cơ sở của Việt Nam không đề cập đến vấn đề độ tuổi của hòa giải viên mà chỉ quy định “hòa giải viên phải là công dân Việt Nam, thường trú tại cơ sở…”.

(2) Quá trình công nhận hòa giải viên: Ở Trung Quốc, hòa giải viên nhân dân sẽ được lựa chọn tại cuộc họp thôn, cuộc họp của các đại diện thôn hay cuộc họp tổ dân cư. Ở Việt Nam, để bảo đảm tiêu chuẩn “có uy tín” trong cộng đồng dân cư, hòa giải viên ở cơ sở phải được trên 50% đại diện các hộ gia đình trong thôn/tổ dân phố bầu (Việc bầu có thể thực hiện bằng hình thức biểu quyết công khai hoặc bỏ phiếu kín tại cuộc họp hoặc phát phiếu lấy ý kiến các hộ gia đình; người được bầu phải có tên trong danh sách bầu hòa giải viên).

(3) Tổ chức hoạt động của hòa giải: Luật Hòa giải nhân dân Trung Quốc quy định Ủy ban hòa giải nhân dân do Hội đồng thôn và Hội đồng các vùng lân cận thiết lập; số lượng hòa giải viên trong Ủy ban hòa giải từ 03 – 09 thành viên. Cơ quan hành chính tư pháp cấp xã có trách nhiệm báo cáo cho các Tòa án nhân dân địa phương về thành phần trong các Ủy ban hòa giải nhân dân, các hòa giải viên và sự thay đổi trong Ủy ban. Còn ở Việt Nam, Tổ hòa giải ở cơ sở do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã quyết định số lượng tổ trên địa bàn và ban hành Quyết định công nhận hòa giải viên, Tổ hòa giải ở cơ sở; số lượng hòa giải viên trong 01 Tổ hòa giải tối thiểu là 03 người (không quy định số lượng tối đa hòa giải viên trong 01 Tổ hòa giải).

(4) Nhiệm kỳ: Luật Hòa giải nhân dân Trung Quốc quy định nhiệm kỳ của Ủy ban hòa giải nhân dân là 03 năm. Các hòa giải viên có thể được lựa chọn tham gia vào Ủy ban tiếp theo sau khi hết hạn nhiệm kỳ. Ở Việt Nam, pháp luật không quy định nhiệm kỳ cho Tổ hòa giải và hòa giải viên ở cơ sở. Đối với Tổ hòa giải, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã sẽ căn cứ vào tình hình thực tiễn để xem xét, quyết định sự cần thiết hay không cần thiết thành lập, duy trì hoạt động của Tổ hòa giải ở cơ sở. Hòa giải viên ở cơ sở không có nhiệm kỳ, họ có thể xin thôi làm hòa giải viên bất kỳ thời điểm nào theo nguyện vọng cá nhân. Trong trường hợp không có quyết định cho thôi làm hòa giải viên của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã[1] thì hòa giải viên tiếp tục thực hiện hoạt động hòa giải (thực tế, có những hòa giải viên đã hoạt động hòa giải từ 15 năm đến 20 năm hoặc lâu hơn nữa).

(5) Về nâng cao năng lực cho hòa giải viên: Trung Quốc quy định cơ quan hành chính tư pháp trực thuộc chính quyền nhân dân cấp xã có trách nhiệm hướng dẫn công tác hòa giải nhân dân và thường xuyên cung cấp, đào tạo nghề nghiệp cho hòa giải viên nhân dân. Tòa án nhân dân cấp cơ sở sẽ cung cấp các hướng dẫn cho các Ủy ban hòa giải nhân dân. Ở Việt Nam, Ủy ban nhân dân cấp xã (trước đây là UBND cấp huyện) có trách nhiệm tổ chức bồi dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ và kỹ năng hòa giải ở cơ sở cho hòa giải viên ở cơ sở.

(6) Về ghi chép quá trình hòa giải: Luật Hòa giải nhân dân Trung Quốc quy định hòa giải viên nhân dân phải lập hồ sơ về công tác hòa giải. Hồ sơ gồm các văn bản đề nghị (đăng ký) hòa giải, bản ghi chép của Hòa giải viên, báo cáo hòa giải và các bản thỏa thuận hòa giải. Ở Việt Nam, việc ghi chép quá trình hòa giải của hòa giải viên rất đơn giản, hòa giải viên có trách nhiệm ghi vụ, việc hòa giải vào Sổ theo dõi hoạt động hòa giải ở cơ sở. Luật Hòa giải ở cơ sở không yêu cầu hòa giải viên hoặc Tổ Hòa giải phải lưu giữ văn bản đề nghị hòa giải của các bên, biên bản hòa giải hoặc các giấy tờ, tài liệu liên quan đến tranh chấp, mâu thuẫn mà hòa giải viên thu thập được trong quá trình hòa giải.

          Đề xuất hoàn thiện quy định về hòa giải viên ở cơ sở của Việt Nam  
  

Để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới (những mâu thuẫn, tranh chấp ngày càng nhiều và phức tạp, trình độ dân trí ngày càng cao…) hòa giải viên ở cơ sở cần được chuyên nghiệp hóa, nâng cao năng lực, trình độ để đáp ứng yêu cầu. Trong thời gian tới, cần sửa đổi, bổ sung Luật Hòa giải ở cơ sở, trong đó đối với các quy định về hòa giải viên, có thể sửa đổi, bổ sung theo hướng sau:

1. Bổ sung quy định độ tuổi hòa giải viên ở cơ sở tại Điều 7 Luật Hòa giải ở cơ sở, theo đó hòa giải viên cơ sở phải là công dân Việt Nam đủ 18 tuổi trở lên. Việc bổ sung độ tuổi trong tiêu chuẩn của hòa giải viên nhằm bảo đảm tính chặt chẽ của quy định pháp luật; đồng thời thống nhất với quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 về năng lực hành vi dân sự của cá nhân “Người thành niên là người từ đủ 18 tuổi trở lên. Người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ” và “Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự”[2].  Do đó, để bảo đảm năng lực hành vi dân sự của hòa giải viên thì cần quy định rõ một trong những tiêu chuẩn của hòa giải viên là phải đủ 18 tuổi trở lên.

2. Sửa đổi quy định về bầu, công nhận hòa giải viên theo hướng giao cho Trưởng thôn, Tổ trưởng Tổ dân phố tổ chức lấy ý kiến nhân dân, theo đó, hòa giải viên là người được người dân lựa chọn bằng hình thức phù hợp (ví dụ biểu quyết tại cuộc họp thôn, tổ dân phố hoặc qua hình thức trực tuyến, công nghệ thông tin khác). Hiện nay, việc bầu hòa giải viên theo quy định tại Điều 8 Luật Hòa giải ở cơ sở và Điều 12 Nghị quyết liên tịch số 01/2014/NQLT/CP-UBTƯMTTQVN ngày 18/11/2014 của Chính phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn phối hợp thực hiện một số quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở quy định việc bầu hòa giải viên với nhiều khâu, nhiều bước (quyết định thành lập Tổ bầu hòa giải viên. Tổ bầu này có trách nhiệm dự kiến kế hoạch như thời gian bầu, hình thức bầu, danh sách những người dự kiến bầu làm hòa giải viên, công khai danh sách bầu trong thời hạn 07 ngày; tổ chức bầu khi có trên % đại diện các hộ gia đình trong thôn, tổ dân phố tham dự; lập biên bản về kết quả biểu quyết đối với trường hợp biểu quyết công khai hoặc kết quả kiểm phiếu đối với trường hợp bỏ phiếu kín. Trường hợp phát phiếu lấy ý kiến các hộ gia đình cũng mất tương đối nhiều thời gian của Tổ bầu hòa giải viên vì phải đi phát phiếu bầu, sau đó đi thu lại phiếu bầu, thành viên Tổ bầu có thể phải đi lại nhiều lần để thu nhận lại phiếu bầu do có gia đình đi làm hoặc ở vùng núi thì khoảng cách đi lại rất xa, khó khăn do địa hình rừng núi…). Vì vậy, để bảo đảm nguyên tắc hòa giải viên phải là người có uy tín trong cộng đồng dân cư, cần thay đổi hình thức bầu hòa giải viên theo hướng đơn giản và áp dụng công nghệ số. Chính quyền cấp xã quyết định việc bầu hòa giải viên bằng hình thức phù hợp với đặc điểm của địa phương.

3. Bổ sung quy định Tòa án nhân dân khu vực phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã tập huấn, bồi dưỡng và hướng dẫn cho các Tổ hòa giải ở cơ sở về kiến thức pháp luật, kỹ năng hòa giải. Hòa giải ở cơ sở có ý nghĩa quan trọng trong việc giảm tải khối lượng vụ, việc đưa ra Tòa án giải quyết. Thẩm phán là những người được đào tạo bài bản, có kiến thức pháp luật chuyên sâu và có kỹ năng xử lý, giải quyết vụ việc một cách thấu đáo. Do đó, việc huy động thẩm phán hỗ trợ, hướng dẫn, tập huấn cho hòa giải viên ở cơ sở về kiến thức pháp luật, kỹ năng hòa giải là hết sức cần thiết để nâng cao năng lực cho đội ngũ hòa giải viên.

4. Bổ sung quy định về lập hồ sơ điện tử vụ việc hòa giải. Trong bối cảnh thực hiện chính quyền số, xã hội số, việc lập hồ sơ điện tử vụ việc hòa giải ở cơ sở là hết sức cần thiết. Đây là cơ sở để thống kê số liệu về hòa giải ở cơ sở, giúp các cơ quan quản lý nhà nước kịp thời nắm bắt thông tin, số liệu; đồng thời đây là cơ sở để Tòa án nhân dân ra quyết định công nhận nếu vụ việc hòa giải thành hoặc là nguồn cung cấp chứng cứ phục vụ giải quyết vụ án nếu hòa giải không thành và được khởi kiện ra tòa án. Mặt khác, hồ sơ điện tử vụ việc hòa giải cũng là căn cứ để tính chi thù lao cho hòa giải viên khi thực hiện hòa giải.
 Nguyễn Thị Quế
Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý
 

[1] Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã cho thôi làm hòa giải viên khi: (1) theo nguyện vọng của hòa giải viên; (2) Hòa giải viên không còn đáp ứng một trong các tiêu chuẩn của hòa giải viên; 93) Hòa giải viên vi phạm nguyên tắc tổ chức, hoạt động hòa giải ở cơ sở hoặc không có điều kiện tiếp tục làm hòa giải viên do bị xử lý vi phạm pháp luật.
[2] Xem Điều 19, Điều 20 Bộ luật dân sự năm 2015.

Xem thêm »