Ngày 01/01/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 01/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 107/2018/NĐ-CP ngày 15/8/2018 của Chính phủ về kinh doanh xuất khẩu gạo (Nghị định số 01/2025/NĐ-CP). Nghị định số 01/2025/NĐ-CP có 03 điều sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 107/2018/NĐ-CP, cụ thể như sau:
Thứ nhất, một số quy định bổ sung mới
(i) Bổ sung mới quy định về ủy thác xuất khẩu gạo và nhận ủy thác xuất khẩu gạo tại Điều 3 Nghị định số 107/2018/NĐ-CP về quyền kinh doanh xuất khẩu gạo như sau:
“Thương nhân có Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo chỉ được ủy thác xuất khẩu hoặc nhận ủy thác xuất khẩu từ thương nhân có Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo”.
(ii) Bổ sung mới chế tài thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo trong trường hợp thương nhân không thực hiện chế độ báo cáo theo quy định tại Nghị định số 107/2018/NĐ-CP và thời hạn thương nhân đề nghị cấp Giấy chứng nhận sau khi bị thu hồi khi không thực hiện chế độ báo cáo. Theo đó, Bộ Công Thương xem xét, quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo trong trường hợp sau 45 ngày kể từ ngày Bộ Công Thương ban hành văn bản đôn đốc thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo mà Bộ Công Thương không nhận được báo cáo của thương nhân theo quy định. Trong trường hợp nêu trên, Bộ Công Thương chỉ xem xét, cấp Giấy chứng nhận mới cho thương nhân sau khi đã hết thời hạn tối thiểu 12 tháng, kể từ ngày có quyết định thu hồi.
(iii) Bổ sung mới quy định Quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo do Bộ Công Thương ban hành và gửi đến thương nhân bị thu hồi, Tổng cục Hải quan, Sở Công Thương địa phương liên quan đồng thời sao gửi Hiệp hội Lương thực Việt Nam để biết và thực hiện nhằm bảo đảm tính công khai, minh bạch.
(iv) Bổ sung mới quy định về trách nhiệm của Bộ Tài chính trong việc ưu tiên phân bổ nguồn kinh phí hàng năm cho chương trình phát triển hoạt động ngoại thương, xúc tiến thương mại đối với gạo và sản phẩm chế biến từ gạo.
Thứ hai, một số quy định sửa đổi, bổ sung
(i) Sửa đổi, bổ sung cơ chế phối hơp liên ngành trong điều hành xuất khẩu gạo tại khoản 2 Điều 20 Nghị định số 107/2018/NĐ-CP như sau: Định kỳ ngày 15 hàng tháng hoặc ngày làm việc liền kề tiếp theo (nếu ngày 15 trùng vào ngày thứ Bẩy, Chủ nhật hoặc ngày nghỉ lễ), Tổng cục Hải quan cung cấp số liệu gạo gửi Bộ Công Thương. Trường hợp đột xuất, Tổng cục Hải quan thực hiện cung cấp số liệu theo văn bản đề nghị của Bộ Công Thương. Thông tin cung cấp bao gồm các tiêu chí: mã HS 1006 (trừ thóc 100610), số lượng, trị giá, tên hàng theo khai báo, nước nhập khẩu, người nhập khẩu, người xuất khẩu, cửa khẩu xuất khẩu, ngày đăng ký tờ khai xuất khẩu
[1].
(ii) Sửa đổi trách nhiệm của Bộ Công Thương về việc tổ chức chương trình xúc tiến thương mại gạo và bố trí kinh phí cho hoạt động xúc tiến thương mại tại điểm a khoản 1 Điều 22 Nghị định số 107/2018/NĐ-CP cụ thể: Bộ Công Thương có trách nhiệm tổ chức thực hiện chương trình phát triển hoạt động ngoại thương, xúc tiến thương mại đối với mặt hàng gạo và sản phẩm chế biến từ gạo để nâng cao giá trị, chất lượng và thương hiệu gạo Việt Nam, đảm bảo tính chủ động, có trọng tâm, trọng điểm trong quản lý, điều hành mặt hàng gạo và sản phẩm chế biến từ gạo
[2].
(iii) Sửa đổi trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong việc hậu kiểm kho chứa, cơ sở xay, xát, chế biến thóc, gạo để đáp ứng điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo trên địa bàn tại điểm d khoản 6 Điều 22 Nghị định số 107/2018/NĐ-CP như sau: Trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày Bộ Công Thương cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo cho thương nhân, Ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố chỉ đạo Sở Công Thương nơi thương nhân có kho chứa thóc, gạo phối hợp với cơ quan liên quan của tỉnh/thành phố tổ chức hậu kiểm kho chứa, cơ sở xay, xát, chế biến thóc, gạo để đáp ứng điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo trên địa bàn theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Nghị định này về kiểm tra điều kiện kinh doanh gạo
[3].
(iv) Sửa đổi, bổ sung trách nhiệm của thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo từ
“Định kỳ vào thứ 5 hàng tuần báo cáo Bộ Công thương về lượng thóc, gạo thực tế tồn kho của thương nhân theo từng chủng loại cụ thể để tổng hợp số liệu phục vụ công tác điều hành” thành
“Định kỳ trước ngày 05 hàng tháng báo cáo Bộ Công Thương, Sở Công Thương nơi thương nhân có trụ sở chính, có kho, có cơ sở xay, xát hoặc cơ sở chế biến thóc, gạo đồng thời sao gửi Hiệp hội Lương thực Việt Nam về lượng thóc, gạo thực tế tồn kho của thương nhân theo từng chủng loại cụ thể để tổng hợp số liệu phục vụ công tác điều hành” để bảo đảm phù hợp với thực tế.
Nghị định số 01/2025/NĐ-CP được ban hành nhằm góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong kinh doanh xuất khẩu gạo; đồng thời khắc phục những tồn tại, khó khăn vướng mắc trong thực tế triển khai thực hiện Nghị định số 107/2018/NĐ-CP. Nghị định số 01/2025/NĐ-CP có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/3/2025./.
Lê Nguyên Thảo
Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật
[1] Khoản 2 Điều 20 Nghị định số 107/2018/NĐ-CP quy định: “Tổng cục Hải quan có trách nhiệm thống kê, cập nhật gửi Bộ Công Thương theo định kỳ tháng, quý, năm hoặc đột xuất theo yêu cầu về tình hình xuất khẩu gạo theo các tiêu chí: Số lượng, trị giá, chủng loại thóc, gạo, thị trường, khách hàng nhập khẩu, thương nhân xuất khẩu; cửa khẩu xuất khẩu; số liệu về xuất khẩu gạo hữu cơ, gạo đồ, gạo tăng cường vi chất dinh dưỡng”.
[2] Điểm a khoản 1 Điều 22 Nghị định số 107/2018/NĐ-CP quy định: “Xây dựng cơ chế xúc tiến thương mại, phát triển thị trường xuất khẩu gạo theo cơ chế đặc thù, chú trọng các thị trường trọng điểm, truyền thống và thị trường mới, thị trường tiềm năng, các chủng loại gạo xuất khẩu có giá trị gia tăng cao”.
[3] Điểm d khoản 6 Điều 22 Nghị định số 107/2018/NĐ-CP quy định: “Chỉ đạo Sở Công Thương và cơ quan liên quan của tỉnh trong việc tổ chức hậu kiểm kho chứa, cơ sở xay, xát, chế biến thóc, gạo để đáp ứng điều kiện kinh doanh trên địa bàn theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Nghị định này”.