Tại xã Nguyễn Phích, 29 Tổ hoà giải đã được thành lập tại 29 ấp trên địa bàn xã với 205 hòa giải viên. Từ năm 2023 đến ngày 30/9/2025, các Tổ hoà giải đã tiếp nhận 53 vụ việc yêu cầu hòa giải, đã đưa ra hòa giải 43 vụ việc; kết quả: Hòa giải thành 40 vụ (đạt tỷ lệ 75,47%); hòa giải không thành 10 vụ (24,53%). So với tỷ lệ hoà giải thành trung bình chung của cả nước và tỷ lệ hoà giải thành trung bình chung của toàn tỉnh Cà Mau, thì tỷ lệ hoà giải thành của xã Nguyễn Phích còn thấp. Mâu thuẫn, tranh chấp chủ yếu phát sinh trong lĩnh vực dân sự, tài sản thừa kế, tranh chấp về lối đi, đất đai… Kết quả khảo sát năng lực của đội ngũ hoà giải viên trên địa bàn xã Nguyễn Phích, tỉnh Cà Mau như sau:
(i) 99% hoà giải viên xã Nguyễn Phích sử dụng điện thoại thông minh hoặc máy vi tính và 98.5% hoà giải viên có sử dụng zalo, Internet. Đặc biệt, có 96.5% hoà giải viên sẵn sàn học trực tuyến (tập trung tại UBND xã và học online qua màn hình); chỉ có 2.5% hoà giải viên không học được trực tuyến (chỉ học tập trung, trực tiếp nghe giảng viên nói). Điều này cho thấy các hoà giải viên trên địa bàn xã Nguyễn Phích, tỉnh Cà Mau có khả năng ứng dựng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tương đối tốt, thích ứng tốt với xu thế chung của đất nước mặc dù độ tuổi của hoà giải viên từ đủ 18 tuổi đến dưới 35 tuổi chỉ chiếm 19.8%; từ đủ 35 tuổi đến dưới 55 tuổi chiếm 48.1%; từ đủ 55 tuổi đến dưới 75 tuổi chiếm 30.5% và từ 75 tuổi trở lên chiếm 1.6%.
(ii) Đối với vấn đề tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật và nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở hàng năm, có đến 97% hòa giải viên trả lời đã được tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật hằng năm và 98% đánh giá việc tập huấn, bồi dưỡng hỗ trợ tốt cho công tác hòa giải ở cơ sở. Như vậy, có thể thấy việc tập huấn, bồi dưỡng cho hòa giải viên được các hòa giải viên đánh giá cao, cần thiết và hữu ích, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả cho công tác hòa giải ở cơ sở.
(iii) Về công tác phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị trong công tác hòa giải ở cơ sở: Đa số các hòa giải viên nhận được sự hỗ trợ của tổ viên tổ bảo vệ an ninh trật tự (57.4%), tuyên truyền viên cơ sở (52%), công an xã (22.8%), tuyên truyền viên pháp luật (30.2%). Trong khi đó sự hỗ trợ của luật sư, luật gia, những người công tác cho ngành pháp luật còn hạn chế, thậm chí chưa có. Có thể thấy, khi giải quyết vụ, việc hòa giải ở cơ sở các hòa giải viên đã nhận được sự giúp đỡ từ cá nhân, đơn vị làm việc trên địa bàn xã.
(iv) Qua khảo sát, có 94.6% hòa giải viên trên địa bàn xã Nguyễn Phích đã đọc Luật Hoà giải ở cơ sở năm 2013. Tuy nhiên tỷ lệ đọc văn bản hướng dẫn thi hành Luật Hoà giải ở cơ sở năm 2013 và văn bản có liên quan đến công tác hoà giải ở cơ sở còn thấp, cụ thể: Chỉ có 32.7% người được khảo sát đọc Nghị định số 15/2014/NĐ-CP; 23,3% đọc Nghị quyết liên tịch số 01/2014/NQLT-CP-UBTWMTTQVN; 14.9% đọc Thông tư số 56/2023/TT-BTC. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng, hiệu quả công tác hoà giải ở cơ sở trên địa bàn bởi bản thân hoà giải viên còn chưa nghiên cứu, tìm học các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công tác hoà giải ở cơ sở. Đây mới chỉ khảo sát việc đọc văn bản luật, chưa tính đến yếu tố ghi nhớ, tìm hiểu, nghiên cứu, hiểu biết chuyên sâu về các quy định pháp luật về hòa giải ở cơ sở.
(v) Nhiều hoà giải viên trên địa xã Nguyễn Phích chưa xác định đúng phạm vi hoà giải ở cơ sở, còn nhầm lẫn trường hợp được hòa giải, trường không thuộc phạm vi hòa giải ở cơ sở. Tỷ lệ người được khảo sát xác định vụ việc được hòa giải ở cơ sở còn thấp như: Mâu thuẫn trong việc sử dụng lối đi qua bất động sản kiền kề (26.2%); tranh chấp phát sinh từ quan hệ dân sự như tranh chấp về quyền sở hữu, nghĩa vụ dân sự, hợp đồng dân sự, thừa kế, quyền sử dụng đất (58.4%); tranh chấp, mâu thuẫn giữa vợ và chồng khi thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân (31.7%). Về vụ, việc không thuộc phạm vi hòa giải ở cơ sở, hòa giải viên được khảo sát vẫn chưa xác định đúng, như tranh chấp giữa người giúp việc gia đình và chủ nhà về thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi (59.9% cho rằng được hòa giải); tranh chấp phát sinh từ việc mua bán động vật hoang dã, quý hiếm (14.9% cho rằng được hòa giải) và hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng thuộc phạm vi hoà giải ở cơ sở (9.4% cho rằng được hòa giải).
(vi) Về khó khăn, vướng mắc khi tiến hành giải quyết vụ, việc hòa giải: Về nghiệp vụ hòa giải: Các hoà giải viên cho rằng khó nhất là tìm quy định pháp luật để áp dụng trong từng vụ, việc cụ thể; tiếp đến là xác định trường hợp nào được hoà giải, trường hợp nào không được hoà giải; tiếp đến là xác định được cách thức tiến hành hoà giải hiệu quả nhất. Về quy định pháp luật: Kết quả khảo sát cho thấy các hoà giải viên cho rằng khó nhất là tìm hiểu quy định pháp luật về đất đai, tiếp đến là hôn nhân và gia đình, sau đó là dân sự.
Căn cứ kết quả khảo sát, để nâng cao năng lực của đội ngũ các hoà giải viên xã Nguyễn Phích, tỉnh Cà Mau, việc thực hiện chỉ đạo điểm theo Đề án 315 cần triển khai một số giải pháp sau:
Thứ nhất, tăng cường tập huấn cho hoà giải viên để xác định đúng phạm vi hoà giải ở cơ sở và các lĩnh vực pháp luật như đất đai, hôn nhân và gia đình, dân sự…; tiếp tục
tập huấn kỹ năng cho các hoà giải viên, tập trung kỹ năng phân tích, thương lượng, thuyết phục, làm chủ, điều tiết tình hình buổi hoà giải cụ thể, kỹ năng lắng nghe, thuyết phục các bên; xây dựng nhiều tình huống mô phỏng để cho các hòa giải viên nắm bắt được quy trình cũng như kỹ năng trong việc giải quyết các vụ, việc. Việc tập huấn nâng cao năng lực cho hòa giải viên có thể bằng hình thức trực tuyến, online hoặc trực tiếp.
Thứ hai, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong công tác hoà giải ở cơ sở. Có thể thấy, hòa giải viên ở cơ sở của xã Nguyễn Phích đáp ứng được việc chuyển đổi số, do đó việc ứng dụng công nghệ số vào công tác hòa giải ở cơ sở bảo đảm khả thi như tập huấn, bồi dưỡng trực tuyến; lập Sổ điện tử theo dõi hoạt động hòa giải; thí điểm hòa giải online giữa các bên; thí điểm lập biên bản hòa giải điện tử…
Thứ ba, quan tâm bố trí kinh phí, cung cấp tài liệu pháp luật, cử công chức và các lực lượng có liên quan hỗ trợ công tác hoà giải ở cơ sở trên địa bàn xã; tăng cường kiểm tra, giám sát và hướng dẫn chuyên môn cho đội ngũ hoà giải viên để phát hiện kịp thời những khó khăn, vướng mắc, những cách hiểu chưa đúng về các quy định pháp luật có liên quan về hoà giải ở cơ sở…