Trợ giúp pháp lý ở Việt Nam: Nhìn lại chặng đường đã qua và yêu cầu cho giai đoạn mới (Phần 1)

02/10/2025
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In Gửi email

Ngày 11/5/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 678/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển trợ giúp pháp lý (TGPL) ở Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 (Chiến lược). Trước yêu cầu đổi mới công tác TGPL theo hướng đẩy mạnh xã hội hoá với lộ trình phù hợp với đặc thù vùng, miền, khu vực, nâng cao chất lượng TGPL, ngày 01/6/2015, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt Đề án đổi mới công tác TGPL giai đoạn 2015 - 2025 (Đề án đổi mới), trong đó đã đưa ra những nhiệm vụ, giải pháp hướng tới đổi mới công tác TGPL và đã tạm dừng một số chỉ tiêu tại Chiến lược không còn phù hợp với yêu cầu, định hướng đổi mới công tác TGPL trong giai đoạn 2015 - 2025 .

Hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý

Thực hiện Chiến lược và Đề án đổi mới, công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật về TGPL đã được quan tâm hoàn thiện từ Luật, Nghị định đến Thông tư, với 23 văn bản quy phạm pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho công tác TGPL phát triển đồng bộ, thống nhất trên toàn quốc. Đặc biệt, ngày 20/6/2017, Quốc hội khóa XIV, kỳ họp thứ 3 đã thông qua Luật TGPL năm 2017 với nhiều định hướng phát triển công tác TGPL. Sự ra đời của Luật TGPL năm 2017, một lần nữa khẳng định Đảng và Nhà nước tiếp tục ghi nhận vị trí, vai trò của công tác TGPL, đánh dấu mốc quan trọng trong việc hoàn thiện thể chế quy định về việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được TGPL, đặc biệt là người nghèo và nhóm yếu thế tại Việt Nam.

Các quy định của pháp luật TGPL đã điều chỉnh toàn diện các vấn đề về tổ chức và hoạt động TGPL như: vị trí, chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Trung tâm; các hình thức, lĩnh vực TGPL; tiêu chuẩn của người thực hiện TGPL; điều kiện, hình thức tham gia TGPL; công tác phối hợp triển khai các nhiệm vụ về TGPL và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có liên quan trong công tác TGPL…Cùng với đó, nội dung TGPL được quy định đồng bộ trong các bộ luật, luật khác có liên quan như: Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam, Luật Trẻ em, Luật Người khuyết tật, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, Luật Tư pháp người chưa thành niên, Luật phòng, chống mua bán người..., góp phần nội luật hóa các cam kết quốc tế như: Công ước quốc tế về quyền trẻ em, Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị, Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật...

Hệ thống tổ chức, bộ máy trợ giúp pháp lý

Ở Trung ương, cơ quan giúp Bộ Tư pháp thực hiện quản lý nhà nước về TGPL được sắp xếp theo hướng tinh gọn, giảm đầu mối, phù hợp với yêu cầu của Đảng và Nhà nước. Việc giải thể Quỹ TGPL Việt Nam[1] và sáp nhập Trung tâm bồi dưỡng TGPL vào Học viện Tư pháp để bảo đảm thống nhất đầu mối về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Bộ Tư pháp; thành lập Trung tâm thông tin dữ liệu TGPL được thực hiện theo yêu cầu của Đề án đổi mới nhằm đáp ứng yêu cầu nắm bắt thông tin, thống nhất quản lý, tổ chức thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong quản lý và điều hành tổ chức, hoạt động TGPL trên toàn quốc. Năm 2025, đơn vị thực hiện quản lý nhà nước về TGPL ở Bộ Tư pháp được hợp nhất với đơn vị thực hiện nhiệm vụ quản lý về phổ biến, giáo dục pháp luật[2]. Như vậy, việc tinh gọn bộ máy quản lý nhà nước về TGPL ở Trung ương đã được thực hiện quyết liệt, bảo đảm hiệu quả nguồn lực nhà nước.

Ở địa phương, nhiệm vụ quản lý nhà nước về TGPL được giao cho Sở Tư pháp giúp UBND cấp tỉnh thực hiện.

Nguồn lực thực hiện trợ giúp pháp lý trên toàn quốc

Giai đoạn từ 2011 - 2014: Trong cả nước có 63 Trung tâm và 199 Chi nhánh của Trung tâm đặt tại huyện hoặc liên huyện (tăng 15% so với trước khi có Chiến lược). Một số địa phương không thành lập Chi nhánh do Trung tâm có thể đáp ứng được nhu cầu TGPL của người dân trong tỉnh. Cả nước có 277 tổ chức hành nghề luật sư, 40 Trung tâm tư vấn pháp luật thuộc các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp đăng ký tham gia TGPL với có 1.244 người, trung bình 19 biên chế/Trung tâm, trong đó có 483 là trợ giúp viên pháp lý; 815 luật sư và 102 tư vấn viên pháp luật. Tổng số cộng tác viên TGPL trong toàn quốc là 8.980 người, trong đó có 1.055 luật sư, chiếm 11,7%. Thành phần tham gia cộng tác viên tương đối đa dạng như cán bộ tư pháp huyện, xã; cán bộ, người lao động của các Sở, ban, ngành…

Giai đoạn từ 2015 - 31/12/2024: Cả nước có 63 Trung tâm và 97 Chi nhánh của Trung tâm (giảm 102 Chi nhánh). Việc duy trì các Chi nhánh được rà soát kỹ theo các điều kiện nhất định để bảo đảm hiệu quả trong việc cung cấp dịch vụ TGPL và đáp ứng nhu cầu TGPL của người dân. Từ 2018, các địa phương trên cả nước đã tiến hành rà soát, đánh giá hiệu quả của Chi nhánh và đã giải thể những Chi nhánh hoạt động không hiệu quả. Các Chi nhánh hiện có đảm nhiệm việc tiếp nhận, thực hiện TGPL cho người dân, phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn Chi nhánh phụ trách.

Với mục tiêu bảo đảm chất lượng TGPL do các tổ chức tham gia TGPL cung cấp, Luật TGPL năm 2017 đã quy định các điều kiện, tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục ký hợp đồng, đăng ký tham gia đối với các tổ chức tham gia TGPL. Hiện nay, cả nước có 197 tổ chức tham gia TGPL, trong đó có 14 tổ chức hành nghề luật sư, 06 tổ chức tư vấn pháp luật ký hợp đồng thực hiện TGPL với Sở Tư pháp[3]; 147 tổ chức hành nghề luật sư, 30 tổ chức tư vấn pháp luật đăng ký tham gia TGPL với Sở Tư pháp.

Cả nước có 1.440 người thực hiện TGPL, trong đó có 712 trợ giúp viên pháp lý, 706 luật sư và 22 cộng tác viên TGPL ký hợp đồng thực hiện TGPL với Trung tâm, 463 luật sư, tư vấn viên pháp luật của các tổ chức đăng ký tham gia TGPL. Riêng đối với số lượng trợ giúp viên pháp lý đã có sự thay đổi đáng kể, tăng dần qua từng năm (từ 2011 - 2014: có 560 trợ giúp viên pháp lý/715 biên chế của Trung tâm; giai đoạn 2015 - 2017: có 630 trợ giúp viên pháp lý/873 biên chế của Trung tâm; giai đoạn 2018 - 2024: có 712 trợ giúp viên pháp lý/1252 biên chế của Trung tâm) do nhu cầu TGPL tăng lên và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quan tâm  tuyển dụng, đào tạo nguồn trợ giúp viên pháp lý.

Năm 2017, Luật TGPL được Quốc hội thông qua. Cùng thời điểm đó, nhiều địa phương đã rà soát, đánh giá lại đội ngũ trợ giúp viên pháp lý để chuẩn hóa theo các điều kiện mới của Luật. Tiêu chuẩn của người thực hiện TGPL đã có sự thay đổi khác biệt so với quy định của Luật TGPL năm 2006[4]. Việc quy định tiêu chuẩn, điều kiện cụ thể đối với tổ chức tham gia TGPL, người thực hiện TGPL đã thể hiện cam kết của Nhà nước trong việc cung cấp dịch vụ TGPL có chất lượng cho người nghèo, đối tượng chính sách và các đối tượng yếu thế khác trong xã hội.

Như vậy, việc tập trung phát triển và định hướng chuyên nghiệp hóa đội ngũ trợ giúp viên pháp lý đã giúp công tác TGPL đi vào trọng tâm, chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ, không còn triển khai dàn trải các hoạt động ngoài TGPL. Mặc dù số lượng tổ chức và người thực hiện TGPL chưa nhiều, nhưng số vụ việc TGPL hằng năm tương đối cao[5], bảo đảm chất lượng, không có vụ việc bị khiếu kiện, khiếu nại về chất lượng; nhiều vụ việc đạt tiêu chí hiệu quả, thành công, được cơ quan tiến hành tố tụng và người dân đánh giá cao.

Số lượng các vụ việc trợ giúp pháp lý đã có sự chuyển biến

Từ năm 2011 đến năm 2024, toàn quốc có 982.684 vụ việc TGPL được thực hiện, trong đó có 194.217 vụ việc tham gia tố tụng (chiếm 19,7% tổng số vụ việc); 768.696 vụ việc tư vấn pháp luật; 3.438 vụ việc đại diện ngoài tố tụng; 16.333 vụ việc bằng hình thức TGPL khác[6].

Giai đoạn 2011 - 2014: Có 440.622 vụ việc TGPL được thực hiện; trong đó, có 27.311 vụ việc tham gia tố tụng (chiếm 6,2% tổng số vụ việc); 402.841 vụ việc tư vấn pháp luật; 605 vụ việc đại diện ngoài tố tụng; 9.865 vụ việc bằng hình thức TGPL khác.

 Giai đoạn 2015 - 2017: Toàn quốc thực hiện 307.493 vụ việc, trong đó có 27.674 vụ việc tham gia tố tụng (chiếm 9% tổng số vụ việc);  272.589 vụ việc tư vấn pháp luật; 762 vụ việc đại diện ngoài tố tụng; 6.468 vụ việc bằng hình thức TGPL khác.

Giai đoạn 2018 - 2024: Có 234.569 vụ việc TGPL được thực hiện; trong đó có 139.232 vụ việc tham gia tố tụng (chiếm 59,4% tổng số vụ việc); 93.266 vụ việc tư vấn pháp luật; 2.071 vụ việc đại diện ngoài tố tụng.

Trong từng giai đoạn, tổ chức thực hiện TGPL đã đáp ứng 100% nhu cầu TGPL của người dân theo đúng quy định, đạt được mục tiêu của Chiến lược và Đề án đổi mới. Số lượng vụ việc có sự thay đổi, số lượng vụ việc tham gia tố tụng tăng, nhất là từ sau khi triển khai Đề án đổi mới với định hướng trọng tâm của công tác TGPL là thực hiện vụ việc TGPL tham gia tố tụng[7]. Số lượng vụ việc TGPL tham gia tố tụng tăng đã góp phần khẳng định vị trí, vai trò của TGPL trong công tác tư pháp nói chung và vai trò của trợ giúp viên pháp lý trong hoạt động tố tụng nói riêng.

Chất lượng trợ giúp pháp lý đã có nhiều cải thiện

Nhiều vụ việc tham gia tố tụng đạt hiệu quả, được đánh giá thành công; nhiều vụ án được tuyên mức án nhẹ hơn hoặc chuyển tội danh hay thay đổi khung hình phạt thấp hơn so với mức đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân, thậm chí có những vụ việc bị cáo được tuyên vô tội, qua đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được TGPL. Người thực hiện TGPL khi bào chữa hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL đã thể hiện tinh thần trách nhiệm cao, thực hiện đúng các quy định về tố tụng và các quy tắc đạo đức nghề nghiệp. Sự tham gia của người thực hiện TGPL tại các cơ quan tiến hành tố tụng cũng góp phần giúp các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng điều tra, truy tố, xét xử khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Kết quả này được ghi nhận thông qua tỷ lệ vụ việc TGPL tham gia tố tụng được đánh giá hiệu quả để xác định thành công ngày càng cao.

Theo thống kê, từ năm 2018 đến hết 31/12/2024 có 43.938 vụ việc thành công (chiếm 31,6% tổng số vụ việc tham gia tố tụng trong giai đoạn này). Trong đó, trợ giúp viên pháp lý thực hiện được 37.999 vụ việc thành công, chiếm 86% tổng số vụ việc thành công trong giai đoạn này.        
                                         
Số liệu trên cho thấy mục tiêu nâng cao chất lượng hoạt động TGPL, tập trung thực hiện vụ việc TGPL, chú trọng vụ việc tham gia tố tụng đã thành công. Kết quả này cho thấy hiệu quả từ các biện pháp chỉ đạo, điều hành của cơ quan quản lý TGPL và sự nỗ lực của các Trung tâm.

Công tác truyền thông về trợ giúp pháp lý

Công tác truyền thông đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc nâng cao nhận thức của người dân về pháp luật và tiếp cận, sử dụng TGPL. Cả Chiến lược và Đề án đổi mới đều khẳng định tầm quan trọng của công tác truyền thông trong việc phổ biến thông tin về TGPL, giúp người dân biết và sử dụng dịch vụ này; đồng thời, định hướng đa dạng hóa các hình thức, phương tiện truyền thông để phù hợp với từng đối tượng, từng vùng miền. Vì vậy, thời gian qua, công tác truyền thông về TGPL đã được đổi mới, tăng cường bằng nhiều phương thức như: kết hợp phương thức truyền thông truyền thống (trực tiếp tại cơ sở, báo chí, tờ gấp…) với truyền thông hiện đại (điện thoại, đường dây nóng, internet…), và các hình thức đặc thù (hộp, bảng tin, tờ tin TGPL tại cơ quan tố tụng, chính quyền cơ sở…).

 Ở Trung ương: Cục TGPL (trước đây) và Cục Phổ biến giáo dục pháp luật và TGPL (hiện nay) đã chủ động nghiên cứu, phối hợp để xây dựng các chương trình, chiến dịch truyền thông với các hình thức đa dạng, phù hợp với từng nhóm đối tượng. Chẳng hạn như: xây dựng các phóng sự về công tác TGPL theo chuyên đề, các phóng sự về vụ việc TGPL thành công cho từng nhóm đối tượng đặc thù, các thông điệp về TGPL trên các kênh truyền hình Trung ương như Đài Truyền hình Việt Nam (VTV1, VTV2, Truyền hình Quốc hội), Đài tiếng nói Việt Nam VOV1…; tổ chức các đợt truyền thông điểm, luân phiên kết nối cộng đồng, nâng cao kiến thức TGPL cho người dân và các trưởng thôn, bản, cán bộ chi hội đoàn thể, người có uy tín trong cộng đồng ở một số địa phương; xây dựng Trang Thông tin điện tử TGPL Việt Nam, Cổng Thông tin điện tử của Bộ Tư pháp với các nội dung phong phú, sinh động.

 Ở địa phương: Các Trung tâm phối hợp với các cơ quan, đoàn thể (Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh...) để giới thiệu thông tin về TGPL cho hội viên của các tổ chức hoặc phối hợp với các cơ quan báo chí để đăng tải các câu chuyện pháp luật TGPL; nghiên cứu, trao đổi nghiệp vụ về TGPL, giải đáp các vướng mắc về pháp luật mà người dân thường gặp. Một số Trung tâm xây dựng Trang Thông tin điện tử về TGPL[8], các phóng sự, chuyên mục về TGPL phát trên đài truyền hình hoặc báo địa phương; tổ chức các đợt truyền thông về TGPL ở cơ sở để trực tiếp truyền thông, hướng dẫn về TGPL cho người dân; xây dựng các bảng tin, hộp tin, tờ rơi, tờ gấp về TGPL; tổ chức các đợt TGPL cao điểm để chào mừng các ngày lễ, kỷ niệm hàng năm.

Như vậy, hoạt động truyền thông ngày càng đổi mới, đa dạng hơn về hình thức và phong phú về nội dung, có tác động lớn đến xã hội, có tính lan toả cao, phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương, qua đó, người dân tiếp cận thông tin về TGPL và sử dụng khi có vướng mắc, tranh chấp pháp luật.

Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong hoạt động trợ giúp pháp lý

Tại thời điểm ban hành Chiến lược, trình độ CNTT vẫn còn ở mức sơ bộ. Tuy vậy, Chiến lược đã đặt ra những định hướng cơ bản về việc ứng dụng CNTT trong TGPL như: hiện đại hóa và nâng cao chất lượng TGPL thông qua ứng dụng CNTT; xây dựng hệ thống phần mềm và cơ sở dữ liệu quốc gia thống nhất về TGPL; sử dụng CNTT để quản lý tổ chức, hoạt động và thực hiện công tác thống kê... Những định hướng này trở thành tiền đề quan trọng để Đề án đổi mới tiếp tục cụ thể hóa và đẩy mạnh hơn nữa việc ứng dụng CNTT để hiện đại hóa và nâng cao hiệu quả công tác TGPL, đặc biệt trong tổ chức và hoạt động TGPL.

Thực hiện Chiến lược và Đề án, Bộ Tư pháp đã chỉ đạo Cục TGPL phối hợp với các đơn vị có liên quan xây dựng và triển khai Phần mềm TGPL nhằm thiết lập một hệ thống quản lý dữ liệu tập trung, thống nhất, giúp đồng bộ hóa thông tin và quy trình nghiệp vụ trên toàn quốc. Trên cơ sở đó, nâng cấp Phần mềm thành Hệ thống quản lý TGPL và chính thức vận hành đồng bộ từ tháng 01/2019. Hệ thống đã cơ bản đáp ứng nhu cầu quản lý, lưu trữ hồ sơ điện tử, trích xuất các số liệu thống kê, báo cáo một cách nhanh chóng. Từ đó tới nay, Hệ thống quản lý TGPL đã góp phần hiện đại hóa công tác quản lý nhà nước và thống kê quốc gia về số liệu vụ việc TGPL, số lượng người được TGPL, số lượng người và tổ chức thực hiện TGPL...

Năm 2024, Hệ thống đã kết nối, chia sẻ dữ liệu với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư theo yêu cầu của Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030; đã chia sẻ với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư khối dữ liệu về người thực hiện TGPL; đồng thời, kết nối, khai thác một số trường thông tin liên quan đến diện người TGPL (như: Số định danh cá nhân, số CMND/CCCD, họ tên, giới tính, ngày sinh, quốc tịch…). Đến nay, Hệ thống đã bước đầu khai thác được thông tin từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Người dùng có thể tra cứu thông tin từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư trên Hệ thống khi nhập thông tin về người được TGPL, người yêu cầu TGPL và người thực hiện TGPL.
(Xin xem tiếp phần 2)
                                                    Tuyết Minh
Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý
 

[1] Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 84/2008/QĐ-TTg ngày 30 tháng 6 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ và giải thể theo Điều 2 Quyết định số 749/QĐ-TTg.
[2] Hiện nay, Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật và TGPL có 04 Phòng và 01 đơn vị sự nghiệp công lập, trong đó Phòng Quản lý TGPL và Trung tâm thông tin pháp luật, hỗ trợ và TGPL trực tiếp hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ và hỗ trợ các địa phương triển khai nhiệm vụ TGPL được giao.
[3] Những địa phương ký hợp đồng với tổ chức hành nghề luật sư hoặc với tổ chức tư vấn: Bình Dương, Đồng Tháp, Quảng Nam, Sóc Trăng, Thanh Hoá, Thừa Thiên Huế, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc. Một số địa phương không ký hợp đồng với tổ chức hành nghề luật sư và luật sư như: Vũng Tàu, Hà Nội, Quảng Bình, Thanh Hóa.
[4] Tiêu chuẩn trợ giúp viên pháp lý - người thực hiện TGPL chuyên trách hiện nay đã tương đương với tiêu chuẩn của luật sư; tư vấn viên pháp luật phải có 02 năm kinh nghiệm tư vấn pháp luật trở lên; cộng tác viên TGPL là những người có kinh nghiệm pháp luật lâu năm về hưu để bảo đảm chất lượng cũng như tránh trường hợp đăng ký tham gia TGPL nhưng không thực hiện vụ việc TGPL.
[5] Từ năm 2018 - 2024, 63 Trung tâm TGPL và 197 tổ chức tham gia TGPL với 1.440 người thực hiện TGPL đã thực hiện được 234.569 vụ việc TGPL.
[6] Luật TGPL năm 2017 quy định chỉ có 3 hình thực TGPL là tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật và đại diện ngoài tố tụng nên hình thức TGPL khác được thống kê từ năm 2011 đến 31/12/2017.
 
[7] Số lượng vụ việc TGPL tham gia tố tụng qua các năm như sau (tính theo số lượng vụ việc kết thúc trong kỳ): năm 2015: 9.809 vụ (chiếm 7% tổng số vụ việc); năm 2016: 7.807 vụ (chiếm 9% tổng số vụ việc); năm 2017: 10.058 vụ (chiếm 12,7% tổng số vụ việc); năm 2018: 11.860 vụ việc (chiếm 23,5% tổng số vụ việc); năm 2019: 13.428 vụ (chiếm 36,2% tổng số vụ việc); năm 2020: 16.168 vụ (chiếm 65,8% tổng số vụ việc); năm 2021: 17.966 vụ (chiếm 78,8% tổng số vụ việc); năm 2022: 21.276 vụ (chiếm 77,2% tổng số vụ việc); năm 2023: 26.816 vụ (chiếm 79,5% tổng số vụ việc); năm 2024: 31.718 vụ (chiếm 83% tổng số vụ việc).
[8] Bình Định, Hưng Yên, Hải Phòng, Đồng Nai, Kiên Giang, Tây Ninh.

Xem thêm »