Bộ Tư pháp tổ chức Hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật TGPL (nguồn: https://www.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/hoat-dong-cua-lanh-dao-bo.aspx?ItemID=7637)
Về tổ chức thực hiện TGPL, hiện toàn quốc có 53 Trung tâm (trước khi hợp nhất tỉnh có 63 Trung tâm), 70 Chi nhánh của Trung tâm, 14 tổ chức hành nghề luật sư, 06 tổ chức tư vấn pháp luật ký hợp đồng với Sở Tư pháp; 147 tổ chức hành nghề luật sư, 30 tổ chức tư vấn pháp luật đăng ký tham gia TGPL với Sở Tư pháp. Tính đến ngày 31/12/2024, cả nước có 1.903 người thực hiện TGPL, trong đó có 712 trợ giúp viên pháp lý, 706 luật sư và 22 cộng tác viên TGPL ký hợp đồng thực hiện TGPL với Trung tâm; 463 luật sư, tư vấn viên pháp luật của các tổ chức đăng ký tham gia TGPL. Trong 08 năm qua, trung bình kinh phí chi cho hoạt động TGPL khoảng 300 tỷ đồng/năm.
Về kết quả thực hiện TGPL, theo báo cáo của các địa phương, tính từ ngày 01/01/2018 đến ngày 31/05/2025, toàn quốc có 248.598 vụ việc TGPL kết thúc, trong đó, có 151.164 vụ việc tham gia tố tụng, 95.283 vụ việc tư vấn pháp luật, 2.151 vụ việc đại diện ngoài tố tụng. Chất lượng vụ việc TGPL ngày càng được quan tâm, chú trọng. Nhiều vụ việc TGPL tham gia tố tụng được đánh giá là hiệu quả, thành công
[1]. Thông qua các vụ việc TGPL cụ thể, quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL được bảo vệ, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân, quyền tiếp cận công lý và hiện thực hóa chủ trương “không để ai bị bỏ lại phía sau”.
Tuy nhiên, qua tổng kết 08 năm triển khai thi hành Luật TGPL năm 2017 cho thấy bối cảnh hiện nay đang đặt ra yêu cầu sửa đổi, bổ sung Luật này nhằm đáp ứng yêu cầu mới. Cụ thể:
1. Cơ sở chính trị, pháp lý
- Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, đề ra nhiệm vụ: “Xây dựng mạng lưới, nâng cao năng lực của hệ thống TGPL để người dân dễ tiếp cận pháp luật”; “Nâng cao vai trò, tính chuyên nghiệp và chất lượng TGPL, nhất là trong hoạt động tố tụng tư pháp; hiện đại hóa, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hệ thống TGPL; mở rộng đối tượng được TGPL phù hợp với điều kiện của đất nước”.
- Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2025 của Bộ Chính trị khoá IX về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW, trong đó có nội dung: “
Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp trong sạch, vững mạnh; Tăng cường hợp tác quốc tế về tư pháp”.
- Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới yêu cầu: “thúc đẩy phát triển mạnh mẽ hệ thống TGPL để người dân dễ tiếp cận pháp luật; ứng dụng công nghệ số, chuyển đổi số đồng bộ trong phổ biến, giáo dục pháp luật, TGPL; bố trí nguồn ngân sách phù hợp, tương xứng cho công tác tổ chức thi hành pháp luật; ưu tiên nguồn lực tương xứng cho công tác TGPL cho đối tượng đặc thù, yếu thế, đồng bào dân tộc thiểu số”.
- Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân nhấn mạnh: kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, cần cung cấp miễn phí dịch vụ tư vấn pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ, hộ kinh doanh và cá nhân kinh doanh.
- Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia yêu cầu: “Nâng cao chất lượng dịch vụ công trực tuyến, dịch vụ số cho người dân và doanh nghiệp, hướng tới cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình, cá nhân hoá và dựa trên dữ liệu; tăng cường giám sát, đánh giá và trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong phục vụ Nhân dân”.
- Nghị quyết số 202/2025/QH15 ngày 12/6/2025 của Quốc hội về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh đã tác động đến mô hình tổ chức và hoạt động của các Trung tâm TGPL nhà nước và Chi nhánh của Trung tâm.
- Tại buổi làm việc với Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp ngày 07/11/2024, đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ đạo “Phát huy vai trò của TGPL trong thực hiện các chính sách an sinh xã hội”.
- Thời gian qua, một số văn bản pháp luật đã được ban hành, trong đó có liên quan đến TGPL, ví dụ: Nghị quyết số 203/2025/QH15 ngày 16/6/2025 của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình số 13/2022/QH15, Luật Phòng, chống mua bán người số 53/2024/QH15, Luật Tư pháp người chưa thành niên số 59/2024/QH15, Luật Tổ chức chính quyền địa phương số 72/2025/QH15.
2. Cơ sở thực tiễn
- Quy định về diện người được TGPL bộc lộ bất cập. Cụ thể, một số nhóm người thuộc chính sách người có công (gồm cha đẻ, mẹ đẻ, vợ, chồng, con của liệt sĩ và người có công nuôi dưỡng khi liệt sĩ còn nhỏ), người nhiễm chất độc da cam, người khuyết tật... thuộc nhóm “đối tượng đặc thù”, gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống, nhưng hiện nay phải chứng minh điều kiện khó khăn về tài chính mới thuộc diện được TGPL. Bị hại trong vụ án hình sự thuộc diện được TGPL đang chỉ giới hạn ở nhóm người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi có khó khăn về tài chính. Bên cạnh đó, một số nhóm người “dễ bị tổn thương” hoặc đang cần trợ giúp nhưng chưa được xác định là người được TGPL. Ví dụ: người dân tộc thiểu số rất ít người; người rơi vào hoàn cảnh khó khăn về tài chính do gặp thiên tai, dịch bệnh, hỏa hoạn, mất mùa, sự kiện bất khả kháng, tình trạng khẩn cấp theo quy định của pháp luật.. Ngoài ra, thời gian gần đây, Việt Nam đã ký kết nhiều điều ước quốc tế, trong đó có các Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự, quy định việc TGPL cho công dân của bên ký kết điều ước quốc tế với Việt Nam, nhưng Luật TGPL năm 2017 chưa có quy định về nhóm đối tượng này.
- Về trợ giúp viên pháp lý, Luật TGPL quy định tiêu chuẩn của trợ giúp viên pháp lý tương đối phù hợp. Tuy nhiên, các quy định về bổ nhiệm, cấp thẻ trợ giúp viên pháp lý chưa thật sự chặt chẽ, chưa phù hợp với vai trò và tính chất đặc thù nghề nghiệp TGPL, trong khi trên thực tế đây là nghề có sự tương đồng với nghề luật sư. Điều này cũng đang làm ảnh hưởng đến chất lượng của hoạt động TGPL và niềm tin của xã hội đối với đội ngũ này.
- Về cộng tác viên TGPL, Luật TGPL năm 2017 đang giới hạn chỉ một số nhóm người có thể trở thành cộng tác viên TGPL gồm: trợ giúp viên pháp lý; thẩm phán, thẩm tra viên ngành Tòa án; kiểm sát viên, kiểm tra viên ngành kiểm sát; điều tra viên; chấp hành viên, thẩm tra viên thi hành án dân sự; chuyên viên làm công tác pháp luật tại các cơ quan nhà nước đã nghỉ hưu. Mặt khác, Luật đang giới hạn và chỉ cho các Trung tâm TGPL ký kết hợp đồng với cộng tác viên ở “vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn”. Bên cạnh đó, cộng tác viên TGPL chỉ được thực hiện các vụ việc TGPL theo hình thức tư vấn pháp luật mà không được tham gia tố tụng hoặc đại diện ngoài tố tụng. Các quy định này chưa thu hút được người có trình độ, có năng lực trong xã hội tham gia TGPL, không mở rộng được mạng lưới người thực hiện TGPL ở các địa bàn khác để đáp ứng nhu cầu TGPL của người dân.
- Về tổ chức thực hiện TGPL, khoản 2 Điều 11 Luật TGPL năm 2017 quy định Chi nhánh của Trung tâm
“được thành lập tại các huyện ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, giao thông không thuận tiện đến Trung tâm TGPL nhà nước và chưa có tổ chức hành nghề luật sư hoặc tổ chức tư vấn pháp luật tham gia TGPL” không còn phù hợp với mô hình chính quyền địa phương hai cấp, chủ trương đẩy mạnh phân cấp, phân quyền cho địa phương.
- Về lĩnh vực TGPL, Luật TGPL hiện hành quy định TGPL được thực hiện trong các lĩnh vực pháp luật, trừ lĩnh vực kinh doanh, thương mại nên những người thuộc diện TGPL mong muốn được tư vấn, TGPL để kinh doanh, làm kinh tế thoát nghèo không được TGPL vì kinh doanh, thương mại không thuộc lĩnh vực TGPL. Điều này không phù hợp với phương châm “lấy người được TGPL làm trung tâm” và xu thế phát triển của xã hội Việt Nam hiện nay.
- Về vai trò của chính quyền cấp xã, sau khi thực hiện tổ chức chính quyền địa phương hai cấp, cấp xã có quy mô lớn hơn, vị trí, vai trò đã được khẳng định ở tầm cao mới. Tuy nhiên, Luật TGPL năm 2017 chưa có quy định cụ thể về vai trò, trách nhiệm của UBND cấp xã trong việc phối hợp tổ chức công tác TGPL tại địa phương.
- Việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, tạo lập, kết nối dữ liệu TGPL là nhu cầu tất yếu, vừa giúp cải cách thủ tục hành chính, nâng cao hiệu suất, hiệu quả quản lý nhà nước, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho người dân. Tuy nhiên, Luật TGPL năm 2017 chưa có quy định về vấn đề này.
- Luật TGPL năm 2017 có một số quy định về thành phần hồ sơ, trình tự thực hiện TGPL (yêu cầu TGPL, hồ sơ vụ việc TGPL, thời hạn cử người thực hiện TGPL, bổ nhiệm, miễn nhiệm và cấp thẻ trợ giúp viên pháp lý...), chưa phù hợp với định hướng đổi mới tư duy về xây dựng pháp luật hiện nay là luật chỉ quy định những vấn đề chung, vấn đề có tính nguyên tắc thuộc thẩm quyền của Quốc hội; những vấn đề thực tiễn thường xuyên biến động thì quy định tại văn bản dưới luật để bảo đảm linh hoạt, phù hợp với thực tiễn.
Từ các cơ sở chính trị, pháp lý và thực tiễn nêu trên, việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật TGPL năm 2017 là cần thiết, nhằm giải quyết những bất cập, hạn chế trong quy định hiện hành của Luật, nâng cao chất lượng TGPL và đáp ứng yêu cầu bảo đảm quyền được tiếp cận công lý của người dân, đặc biệt là các nhóm “yếu thế” trong xã hội, phù hợp với các chính sách của Đảng và Nhà nước ta về an sinh và công bằng xã hội theo phương châm “không ai bị bỏ lại phía sau”.
3. Một số nội dung sửa đổi, hoàn thiện
3.1. Về diện người được TGPL
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số diện người được TGPL nhằm bảo đảm tối đa quyền được tiếp cận pháp luật, TGPL cho các đối tượng đặc thù, phù hợp với thông lệ quốc tế, các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, cụ thể như sau:
- Bổ sung người dân tộc thiểu số thuộc dân tộc rất ít người nhằm thực hiện toàn diện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước; bổ sung người có khó khăn về tài chính do gặp thiên tai, dịch bệnh, hỏa hoạn, mất mùa, sự kiện bất khả kháng, tình trạng khẩn cấp theo quy định của pháp luật; bổ sung người bị thiệt hại theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước; bổ sung “Người nước ngoài theo điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên” nhằm nội luật hóa cam kết về bảo đảm quyền được TGPL trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên theo đúng quy định của Luật Điều ước quốc tế
[1]. Theo quy định của Luật Quốc tịch Việt Nam, Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam thì người nước ngoài là công dân nước ngoài và người không quốc tịch thường trú hoặc tạm trú ở Việt Nam. Như vậy, quy định này thống nhất với điểm đ khoản 1 Điều 37 Luật Phòng, chống mua bán người có quy định về quyền được TGPL của người không quốc tịch thường trú tại Việt Nam.
- Bỏ điều kiện
“có khó khăn về tài chính” đối với các nhóm đối tượng:
Cha đẻ, mẹ đẻ, vợ, chồng, con của liệt sĩ và người có công nuôi dưỡng khi liệt sĩ còn nhỏ; Người bị nhiễm chất độc da cam; Người khuyết tật vì các lý do sau: Đây là nhóm đối tượng đặc thù về nhân thân hoặc bị ảnh hưởng về thể chất, tinh thần (nhóm người bị nhiễm chất độc da cam và người khuyết tật). Thực tiễn thời gian qua cho thấy, số lượng những người này không nhiều
[2]; số lượng thân nhân người có công và người nhiễm chất độc da cam cũng đang giảm dần theo thời gian. Việc quy định những nhóm này được TGPL mà không yêu cầu điều kiện “có khó khăn về tài chính” là phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội hiện nay của đất nước, phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành
[3], điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên
[4] và các chính sách tri ân người có công, thân nhân người có công của Đảng, Nhà nước, cũng như chủ trương “mở rộng đối tượng được TGPL phù hợp với điều kiện của đất nước” tại Nghị quyết số 27-NQ/TW. Việc quy định TGPL cho người khuyết tật, không giới hạn ở điều kiện có khó khăn về tài chính phù hợp kết luận của đồng chí Tổng Bí thư tại buổi làm việc với Đảng uỷ Chính phủ và các ban, bộ, ngành Trung ương về tình hình thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đối với người khuyết tật
[5]. Mở rộng TGPL cho tất cả người thuộc hộ cận nghèo, người hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng mà không giới hạn ở diện người bị buộc tội, người nhiễm HIV, người cao tuổi, nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình.
Việc mở rộng đối tượng TGPL phù hợp với chủ trương của Đảng, Nhà nước “không để ai bị bỏ lại phía sau” trong tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Trong lĩnh vực pháp luật, người dân, nhất là nhóm “yếu thế” cần được bảo đảm công lý, được tiếp cận công bằng với pháp luật, được TGPL để thụ hưởng dịch vụ pháp lý miễn phí của Nhà nước. Việc nâng cao nhận thức pháp luật, tháo gỡ vướng mắc pháp luật và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong các tranh chấp giúp người dân yên tâm sinh sống và góp phần thúc đẩy kinh tế, hạn chế tối đa vi phạm pháp luật do không có sự trợ giúp từ Nhà nước, xã hội. Việc mở rộng diện người được TGPL phù hợp với Nghị quyết 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII. Cách quy định này cũng tương đồng với quy định của nhiều nước trên thế giới, theo đó, Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm TGPL miễn phí cho những người không có khả năng tài chính để chi trả cho dịch vụ pháp lý có thu phí. Theo ước tính, khi sửa đổi, bổ sung diện người được TGPL và mở rộng lĩnh vực kinh doanh, thương mại sẽ phát sinh khoảng 11.800 vụ việc/năm. Hiện có hơn 1.900 người thực hiện TGPL, như vậy trung bình mỗi người thực hiện TGPL đảm nhận thêm khoảng 6 vụ/năm/người, không yêu cầu bổ sung người thực hiện TGPL hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Hiện nay, kinh phí chi trả vụ việc TGPL là 2,8 triệu/vụ. Do đó, ước tính kinh phí chi trả thực hiện số vụ việc này là khoảng 34 tỷ đồng/năm (trung bình 1 tỷ đồng/tỉnh/năm). Đây là chi phí trực tiếp cho thực hiện TGPL (chi trả thù lao cho luật sư, người thực hiện TGPL lý khác, chi phí đi lại, công tác phí…), không phát sinh chi phí hành chính, cơ sở vật chất, trang thiết bị và chi phí gián tiếp khác.
Dự kiến tổng kinh phí chi cho công tác TGPL sau khi Luật có hiệu lực là: khoảng 389 tỷ đồng (tăng 34 tỷ đồng so với năm 2025). Năm 2026, dự kiến chi ngân sách nhà nước là 3.159.106 tỷ đồng, như vậy, kinh phí TGPL chiếm 0,0123% trong dự toán chi ngân sách nhà nước. Như vậy, có thể khẳng định ngân sách nhà nước đủ khả năng đáp ứng đầy đủ, toàn diện và phù hợp xu hướng phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới.
3.2. Về người thực hiện TGPL.
- Với trợ giúp viên pháp lý: Bổ sung các trường hợp không được bổ nhiệm, cấp thẻ trợ giúp viên pháp lý tương đồng với quy định của Luật Luật sư, bảo đảm chặt chẽ về điều kiện bổ nhiệm, góp phần khẳng định vị thế của trợ giúp viên pháp lý, bao gồm các trường hợp: đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc; đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự; đã bị kết án mà chưa được xóa án tích về tội phạm do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng do cố ý; đã bị kết án về tội phạm nghiêm trọng do cố ý, tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý kể cả trường hợp đã được xóa án tích. Bổ sung trường hợp trợ giúp viên pháp lý bị miễn nhiệm khi bị kết án và bản án đã có hiệu lực pháp luật.
Hiện Luật TGPL năm 2017 quy định một trong những trường hợp bị miễn nhiệm, thu hồi thẻ là trợ giúp viên pháp lý không thực hiện vụ việc TGPL tham gia tố tụng trong thời gian 02 năm liên tục, trừ trường hợp do nguyên nhân khách quan. Để tăng cường trách nhiệm của trợ giúp viên pháp lý, bảo đảm chất lượng của đội ngũ này, dự thảo Luật sửa đổi thời hạn không thực hiện vụ việc TGPL là 12 tháng. Thẻ trợ giúp viên pháp lý được cấp lại trong trường hợp bị mất, bị hư hỏng hoặc bị thu hồi do trợ giúp viên pháp lý chuyển công tác đến Trung tâm TGPL thuộc địa phương khác, vì thẻ trợ giúp viên pháp lý do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cấp và quản lý trong phạm vi địa phương, khi trợ giúp viên pháp lý chuyển công tác sang địa phương khác và vẫn làm trợ giúp viên pháp lý thì cần thu hồi thẻ ở nơi đã công tác và cấp thẻ ở nơi công tác mới.
- Với cộng tác viên TGPL:
Sửa đổi phạm vi người có thể trở thành cộng tác viên TGPL, không giới hạn ở một số người đã về hưu. Cụ thể, người có tiêu chuẩn tương đương với trợ giúp viên pháp lý và không thuộc một trong các trường hợp: “đang là cán bộ, công chức; sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan, công nhân trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân; viên chức đang trong thời hạn bị xử lý kỷ luật; đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc; đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự; đã bị kết án mà chưa được xóa án tích về tội phạm do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng do cố ý; đã bị kết án về tội phạm nghiêm trọng do cố ý, tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý kể cả trường hợp đã được xóa án tích” thì có thể trở thành cộng tác viên TGPL và không giới hạn địa bàn sử dụng cộng tác viên. Việc sửa đổi này giúp mở rộng nhóm người có thể trở thành cộng tác viên TGPL, nâng cao chất lượng hoạt động và khắc phục bất cập hiện nay là có rất ít cộng tác viên TGPL.
[6]
Bổ sung một số trường hợp bị thu hồi thẻ cộng tác viên TGPL: không còn đủ tiêu chuẩn cộng tác viên TGPL; thực hiện hành vi bị nghiêm cấm quy định tại khoản 1 Điều 6 của Luật TGPL hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động TGPL nhưng chưa đến mức bị thu hồi thẻ mà tiếp tục có hành vi vi phạm; hợp đồng thực hiện TGPL bị chấm dứt; bị xử lý kỷ luật bằng hình thức buộc thôi việc đối với cộng tác viên TGPL là viên chức; bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc; bị kết án và bản án đã có hiệu lực pháp luật. Đây là nội dung liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích của chủ thể thuộc đối tượng áp dụng của Luật nên cần quy định ở Luật (hiện nay một số trường hợp đang được quy định tại Nghị định số 144/2017/NĐ-CP).
Bổ sung quy định cộng tác viên TGPL được thực hiện vụ việc TGPL tham gia tố tụng và đại diện ngoài tố tụng theo quy định của pháp luật
[7] do tiêu chuẩn cộng tác viên đã được nâng lên tương đương với trợ giúp viên pháp lý. Đồng thời, do nhu cầu TGPL của người dân ngày càng tăng, nên việc cho phép cộng tác viên TGPL được tham gia tố tụng và đại diện ngoài tố tụng sẽ giúp huy động thêm nguồn nhân lực, thu hút và phát huy được được những người có trình độ, kinh nghiệm và có khả năng tham gia thực hiện TGPL, tạo điều kiện cho người dân được tiếp cận dịch vụ pháp lý kịp thời, chất lượng. Quy định này phù hợp với Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính và các quy định của pháp luật về tố tụng khác. Trong tố tụng hình sự, cộng tác viên TGPL có thể tham gia tư cách là người đại diện của người bị buộc tội
[8]. Trong tố tụng dân sự và tố tụng hành chính cộng tác viên tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.
[9]
3.3. Về tổ chức thực hiện TGPL
Sửa đổi quy định thành lập Chi nhánh của Trung tâm TGPL nhà nước theo hướng không giới hạn việc chỉ được thành lập “tại các huyện ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, giao thông không thuận tiện đến Trung tâm TGPL nhà nước và chưa có tổ chức hành nghề luật sư hoặc tổ chức tư vấn pháp luật tham gia TGPL”. Việc sửa đổi này phù hợp với chủ trương phân quyền cho địa phương, phù hợp với mô hình tổ chức chính quyền địa phương hai cấp, nhiều địa phương hợp nhất tỉnh, hợp nhất xã nên có quy mô rộng và điều kiện kinh tế - xã hội khác trước đây. Do vậy, cần tạo điều kiện để Chủ tịch UBND cấp tỉnh chủ động quyết định địa bàn đặt Chi nhánh cho phù hợp với nhu cầu và điều kiện thực tế tại địa phương, qua đó góp phần nâng cao trách nhiệm của địa phương.
3.4. Về lĩnh vực TGPL:
Dự thảo Luật bãi bỏ quy định về lĩnh vực TGPL, không hạn chế lĩnh vực pháp luật, không loại bỏ lĩnh vực kinh doanh thương mại. Xét ở khía cạnh khoa học pháp lý và pháp luật thực định của Việt Nam, lĩnh vực “kinh doanh, thương mại” là một phần của lĩnh vực dân sự và phù hợp với cách tiếp cận của hầu hết các nước trên thế giới. Do vậy, việc tách lĩnh vực “kinh doanh, thương mại” ra khỏi lĩnh vực dân sự không thật sự phù hợp. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy hầu hết các nước trên thế giới đều xây dựng chính sách TGPL xuất phát từ lĩnh vực tư pháp hình sự, sau đó, chính sách này được mở rộng dần ra lĩnh vực khác và cũng không có giới hạn cụ thể lĩnh vực của TGPL .
- Ở Việt Nam, trong thời gian qua, Đảng, Nhà nước đang thực hiện đồng bộ, mạnh mẽ các giải pháp để thúc đẩy phát triển khu vực kinh tế tư nhân, đặc biệt từ khi có Nghị quyết 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân, bao gồm cả nhóm người có điều kiện kinh tế còn hạn chế (có thể là người nghèo hoặc cận nghèo) tham gia các hoạt động nhằm mục đích mưu sinh nhưng có tính chất kinh doanh, thương mại. Với tinh thần đó thì việc tạo điều kiện hỗ trợ, TGPL cho các cá nhân kinh doanh, phát triển kinh tế nhằm thoát nghèo là điều cấp thiết hiện nay. Bên cạnh chính sách hỗ trợ pháp lý doanh nghiệp nhỏ và vừa, việc TGPL cho những chủ thể này sẽ không tạo ra khoảng trống chính sách và bảo đảm hơn sự công bằng theo nguyên tắc lấy người được TGPL làm trung tâm, “ở đâu có người thuộc diện cần được TGPL và có nhu cầu trợ giúp thì ở đó có hoạt động TGPL”. Điều này góp phần làm sâu sắc hơn tính nhân văn của hoạt động TGPL trong tổng thể các chính sách an sinh xã hội, khuyến khích xóa đói, giảm nghèo, vươn lên làm giàu của Đảng và Nhà nước ta, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế của Việt Nam đang đứng trước thềm của kỷ nguyên mới.
3.5. Về trách nhiệm quản lý nhà nước của Chính phủ, Bộ Tư pháp, Bộ, ngành và UBND cấp tỉnh trong công tác TGPL
Bổ sung trách nhiệm của Chính phủ trong ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong TGPL, cụ thể: “Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về TGPL;
đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số, chuyển đổi số trong TGPL”. Quy định này nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng và Nhà nước về thúc đẩy ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số tại Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, qua đó nâng cao khả năng tiếp cận của người dân và tối ưu hóa hiệu quả dịch vụ TGPL trong thời gian tới.
Đồng thời, bổ sung trách nhiệm của Bộ Tư pháp trong việc ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số và triển khai chuyển đổi số trong hoạt động TGPL; xây dựng, quản lý, vận hành và thường xuyên nâng cấp Hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu TGPL; thực hiện kết nối, tích hợp, chia sẻ dữ liệu TGPL với Cổng Pháp luật quốc gia. Các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc “tạo lập, tích hợp, chia sẻ, khai thác và sử dụng dữ liệu thông qua kết nối, liên thông với cơ sở dữ liệu TGPL trên Cổng Pháp luật quốc gia”.
Sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng công nghệ 4.0 và xu thế xây dựng Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số đã đặt ra yêu cầu xây dựng, vận hành Hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu TGPL, nhằm thay thế hệ thống hiện có với nhiều tính năng mới, đáp ứng nhu cầu quản lý tổ chức và hoạt động TGPL trong điều kiện mới và kế thừa dữ liệu của phần mềm hiện có. Việc quy định đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số, chuyển đổi số trong TGPL và xây dựng, quản lý, vận hành và thường xuyên nâng cấp Hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu TGPL; thực hiện kết nối, tích hợp, chia sẻ dữ liệu TGPL trên Cổng Pháp luật quốc gia sẽ giúp thu thập, quản lý, khai thác hiệu quả thông tin trong lĩnh vực TGPL, nhằm kịp thời phục vụ công tác chỉ đạo điều hành của cơ quan quản lý nhà nước; tiếp tục đơn giản hóa thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng hoạt động TGPL.
3.6. Về trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Bổ sung trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình phối hợp với các cơ quan nhà nước, tổ chức có liên quan thực hiện TGPL theo quy định của pháp luật.
3.7. Về trách nhiệm của UBND cấp xã trong công tác TGPL
Bổ sung trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp xã “phối hợp với tổ chức thực hiện TGPL trong việc triển khai thực hiện công tác TGPL trên địa bàn”, nhằm phát huy vai trò, trách nhiệm của cấp chính quyền cơ sở trong việc giúp người dân, nhất là nhóm “yếu thế” kịp thời tiếp cận và sử dụng TGPL, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của họ.