Đảm bảo quyền được trợ giúp pháp lý của bị hại là người thuộc hộ cận nghèo trong vụ án hình sự: Yêu cầu đặt ra với chính sách trợ giúp pháp lý hiện nay

27/12/2025
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In Gửi email

Ngày 20/6/2017, Quốc hội khóa XIV đã tiếp tục ghi nhận vị trí, vai trò công tác trợ giúp pháp lý (TGPL) bằng việc thông qua Luật TGPL. Sự ra đời của Luật TGPL năm 2017 đã đánh dấu mốc quan trọng trong việc hoàn thiện thể chế công tác TGPL nói riêng và triển khai Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân nói chung. Mở rộng diện người được TGPL theo các nguyên tắc, tiêu chí cụ thể, phù hợp với bản chất của TGPL và điều kiện đặc thù của đất nước là một trong những điểm mới của Luật TGPL 2017 so với Luật TGPL năm 2006 thể hiện rõ nét quyền con người trong lĩnh vực TGPL.

Theo quy định tại Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý 2017 được sửa đổi, bổ sung bởi khoản 1 Điều 61 Luật Phòng, chống mua bán người 2024 và điểm a Khoản 6 Điều 177 Luật Tư pháp người chưa thành niên 2024 quy định đối tượng thuộc diện được TGPL  gồm: [1]Người có công với cách mạng; [2] Người thuộc hộ nghèo; [3] Trẻ em; [4] Người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; [5] Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội, bị hại, người làm chứng, người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng, phạm nhân; [6] Người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo; [7] Người thuộc một trong các trường hợp sau đây có khó khăn về tài chính: Cha đẻ, mẹ đẻ, vợ, chồng, con của liệt sĩ và người có công nuôi dưỡng khi liệt sĩ còn nhỏ; Người nhiễm chất độc da cam; Người cao tuổi; Người khuyết tật; Nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình; Người nhiễm HIV.
Tuy nhiên, trong tố tụng hình sự, bị hại là chủ thể chịu thiệt hại trực tiếp từ hành vi phạm tội, thường ở vị thế yếu và gặp nhiều khó khăn trong tự bảo vệ quyền lợi. Đặc biệt, nhóm bị hại thuộc hộ cận nghèo dễ rơi vào tình trạng không đủ điều kiện kinh tế để thuê luật sư, dẫn đến nguy cơ bị thiệt thòi khi tham gia tố tụng. Tuy nhiên, Luật TGPL năm 2017 hiện nay chưa quy định bị hại thuộc hộ cận nghèo là đối tượng được TGPL miễn phí, tạo ra khoảng trống trong bảo vệ quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp năm 2013. Trong bối cảnh cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, việc bảo đảm TGPL bình đẳng cho nhóm đối tượng dễ bị tổn thương này là yêu cầu bức thiết.
 
 Theo quy định tại Điều 62 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 (BLTTHS năm 2015) về bị hại thì “Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra.”.
Trong cùng một vụ án hình sự, người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo được TGPL, nếu đủ điều kiện, họ còn được cơ quan tiến hành tố tụng chỉ định luật sư cho họ. Trong khi đó, bị hại thuộc hộ cận nghèo, không được hưởng dịch vụ TGPL miễn phí. Họ chỉ được hưởng dịch vụ TGPL khi họ thuộc một trong các diện được TGPL theo quy định tại Điều 7 Luật TGPL. Trường hợp họ không thuộc một trong các diện được TGPL theo quy định tại Điều 7 Luật TGPL thì họ phải tự thuê luật sư để bảo vệ quyền lợi, trong khi khả năng tài chính thấp, chênh lệch kinh tế giữa hai nhóm cận nghèo và nghèo là rất nhỏ[1].
Nhóm hộ cận nghèo có nguy cơ tái nghèo cao, phần lớn thiếu hiểu biết pháp luật. Khi là bị hại trong vụ án hình sự, họ có nhu cầu lớn về TGPL nhưng lại bị rào cản tài chính cản trở việc mời luật sư. Trong khi đó, chủ trương của Nhà nước luôn nhấn mạnh không để ai bị bỏ lại phía sau, đặc biệt trong lĩnh vực tư pháp và hỗ trợ người yếu thế. Việc chưa mở rộng diện TGPL dẫn đến nhiều hạn chế: bị hại không được hỗ trợ kịp thời trong thu thập chứng cứ, yêu cầu bồi thường; có nguy cơ bị tác động, đe dọa, từ đó ảnh hưởng đến quá trình xét xử khách quan; làm giảm hiệu quả bảo vệ công lý và năng lực phòng ngừa tội phạm.
Từ những phân tích nêu trên có thể thấy, để bảo đảm đầy đủ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại thuộc hộ cận nghèo trong tố tụng hình sự, việc hoàn thiện chính sách TGPL là hết sức cấp thiết. Vì vậy, bài viết đề xuất một số kiến nghị sau:
Thứ nhất, bổ sung bị hại là người thuộc hộ cận nghèo vào diện được TGPL miễn phí trong tố tụng hình sự. Quy định này cần được thể chế hóa trong quá trình sửa đổi, bổ sung Luật TGPL năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành, nhằm bảo đảm nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật, phù hợp với chính sách an sinh xã hội và yêu cầu bảo vệ nhóm yếu thế được nhấn mạnh trong Hiến pháp năm 2013.
Thứ hai, hoàn thiện cơ chế xác minh đối tượng cận nghèo theo hướng đơn giản hóa thủ tục. Cần tăng cường kết nối, chia sẻ cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và an sinh xã hội giữa cơ quan tiến hành tố tụng, chính quyền địa phương và Trung tâm TGPL nhà nước. Đây là cơ sở quan trọng để rút ngắn thời gian thụ lý yêu cầu TGPL, giảm gánh nặng giấy tờ và chi phí tuân thủ cho người dân.
Thứ ba, bảo đảm nguồn lực cho hoạt động TGPL. Nhà nước cần bố trí ngân sách phù hợp với phạm vi mở rộng đối tượng thụ hưởng; đồng thời phát triển mạng lưới người thực hiện TGPL (trợ giúp viên pháp lý, luật sư ký hợp đồng, cộng tác viên) tại các địa bàn có tỷ lệ hộ cận nghèo và bị hại của tội phạm cao. Khuyến khích đa dạng hóa hình thức cung cấp dịch vụ như TGPL lưu động, trực tuyến, qua tổng đài.
Thứ tư, tăng cường phối hợp liên ngành trong quá trình hỗ trợ bị hại tham gia tố tụng. Cơ quan tố tụng cần thông báo kịp thời cho Trung tâm TGPL nhà nước khi phát hiện bị hại có hoàn cảnh cận nghèo hoặc có dấu hiệu dễ bị tổn thương; đồng thời bảo đảm các biện pháp hỗ trợ tâm lý, bảo vệ an toàn cho bị hại trong từng giai đoạn tố tụng.
Thứ năm, đẩy mạnh công tác tuyên truyền và tiếp cận thông tin về TGPL. Nội dung tuyên truyền cần tập trung vào các vụ việc xâm phạm thân thể, nhân phẩm, tài sản tại khu vực nông thôn, miền núi - nơi nhóm hộ cận nghèo chiếm tỷ lệ lớn và có nhu cầu TGPL cao nhưng khả năng tiếp cận thông tin còn hạn chế.
Việc hoàn thiện chính sách TGPL đối với bị hại thuộc hộ cận nghèo không chỉ bảo đảm quyền con người, quyền công dân mà còn góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào hoạt động tư pháp, nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm và thực thi công lý trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
                                          Tuyết Minh
Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý
 
 

[1] Theo quy định tại Nghị định số 07/2021/NĐ-CP quy định chuẩn nghèo giai đoạn 2021-2015 như sau:
a) Chuẩn hộ nghèo
- Khu vực nông thôn: Là hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ 1.500.000 đồng trở xuống và thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.
- Khu vực thành thị: Là hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ 2.000.000 đồng trở xuống và thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.
b) Chuẩn hộ cận nghèo
- Khu vực nông thôn: Là hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ 1.500.000 đồng trở xuống và thiếu hụt dưới 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản.
- Khu vực thành thị: Là hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ 2.000.000 đồng trở xuống và thiếu hụt dưới 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản.

Xem thêm »