Những bất cập từ thực tiễn thi hành Nghị định số 144/2017/NĐ-CP và định hướng sửa đổi, bổ sung

29/12/2025
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In Gửi email

Ngày 15/12/2017, Chính phủ ban hành Nghị định số 144/2017/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý (TGPL) năm 2017. Được ban hành ngay sau khi Luật TGPL có hiệu lực, việc triển khai thi hành Nghị định đã có tác động kịp thời, mạnh mẽ đến công tác tổ chức thực hiện TGPL, đưa Luật TGPL đến với người nghèo, người có công với cách mạng, đối tượng yếu thế, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số, qua đó nâng cao vị thế, vai trò của pháp luật trong quản lý đất nước, quản lý xã hội và bảo vệ quyền công dân.

Bên cạnh đó, Nghị định số 144/2017/NĐ-CP đã tạo cơ sở pháp lý cụ thể để tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy tổ chức thực hiện TGPL, các địa phương trên toàn quốc đã thực hiện sắp xếp, phê duyệt Đề án vị trí việc làm của Trung tâm, theo báo cáo của địa phương tính đến ngày31/10/2025, toàn quốc có 53 Trung tâm, 70 Chi nhánh trung tâm TGPL nhà nước; 1.903 người thực hiện TGPL, trong đó có 712 trợ giúp viên pháp lý, 706 luật sư và 22 cộng tác viên TGPL ký hợp đồng thực hiện TGPL với Trung tâm; 463 luật sư, tư vấn viên pháp luật của các tổ chức đăng ký tham gia TGPL. Số lượng trợ giúp viên pháp lý được củng cố, tăng dần qua từng năm (năm 2017 có 630 trợ giúp viên pháp lý/873 biên chế của Trung tâm; năm 2024 có 712 trợ giúp viên pháp lý/1252 biên chế của Trung tâm).
Công xây dựng đội ngũ và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thực hiện các chế độ, chính sách cho người thực hiện TGPL, bảo đảm chế độ, chính sách, khuyến khích đội ngũ người thực hiện TGPL yên tâm công tác; chuẩn hoá các hoạt động TGPL; quy trình, trình tự, thủ tục TGPL và quản lý nhà nước về TGPL để hướng đến mục tiêu cao nhất là bảo đảm quyền được TGPL của người nghèo, người có công với cách mạng, đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng yếu thế khác. Qua đó, hỗ trợ, giúp đỡ, hướng dẫn họ tự mình hoặc có thể nhờ người khác bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp khỏi sự xâm hại, từng bước nâng cao ý thức pháp luật, góp phần tổ chức thực hiện pháp luật, hạn chế, phòng ngừa các vi phạm pháp luật, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển gắn với giải quyết vấn đề an sinh xã hội, giữ đoàn kết cộng đồng, góp phần xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Từ ngày 01/01/2018 đến ngày 31/05/2025, toàn quốc có 248.598 vụ việc TGPL kết thúc, trong đó có 151.164 vụ việc tham gia tố tụng (chiếm 60.8% tổng số vụ việc); 95.283 vụ việc tư vấn pháp luật; 2.151 vụ việc đại diện ngoài tố tụng.
Chất lượng vụ việc TGPL được chú trọng. Theo thống kê, từ ngày 01/01/2018 đến hết ngày 31/12/2024, có 43.938 vụ việc tố tụng được đánh giá là vụ việc thành công (chiếm 31,5% tổng số vụ việc tham gia tố tụng), trong đó, trợ giúp viên pháp lý thực hiện được 37.996 vụ việc thành công, chiếm 86% tổng số vụ việc thành công.
Những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn triển khai Nghị định số 144/2017/NĐ-CP
Bên cạnh những kết quả đạt được, sau 08 năm triển khai thực hiện Nghị định số 144/2017/NĐ-CP còn có một số tồn tại, hạn chế, bất cập sau đây:
Thứ nhất, về quy định có khó khăn về tài chính, Nghị quyết số 27-NQ/TW đặt ra yêu cầu mở rộng đối tượng được TGPL phù hợp với điều kiện của đất nước. Hiện nay, theo quy định của Luật TGPL năm 2017, nhóm người được TGPL cần có điều kiện có khó khăn về tài chính gồm 08/14 diện người nhưng trong thực tế thời gian qua, nhóm người này chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số người được TGPL. Một số diện người được TGPL có số lượng rất ít (trong 08 năm, trung bình mỗi năm chỉ có 53 nạn nhân bị bạo lực gia đình, 40 người nhiễm HIV được TGPL). Như vậy, có thể thấy, điều kiện có khó khăn về tài chính như hiện nay là người thuộc hộ cận nghèo hoặc là người đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng theo quy định của pháp luật là còn hẹp . Mặt khác, trong xã hội hiện nay, một số người dân (như người mới thoát nghèo, người thuộc hộ làm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và diêm nghiệp có thu nhập trung bình…) cuộc sống còn nhiều khó khăn, nếu họ gặp vướng mắc, tranh chấp thì họ không đủ điều kiện để sử dụng dịch vụ pháp lý có thu. Bên cạnh đó, một số nhóm người gặp khó khăn đột xuất (do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn...). Tại thời điểm có khó khăn đột xuất, nhiều người cũng chưa đủ điều kiện chi trả để sử dụng ngay dịch vụ pháp lý có thu, cũng như họ chưa thể ngay lập tức có thể xác định được tình trạng có khó khăn về tài chính.
 Thứ hai, điều kiện giao thông của huyện thành lập Chi nhánh, khoản 2 Điều 11 Luật TGPL quy định Chi nhánh được thành lập tại các huyện ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, giao thông không thuận tiện đến Trung tâm TGPL nhà nước. Khoản 2 Điều 6 Nghị định số 144/2017/NĐ-CP quy định huyện có giao thông không thuận tiện đến Trung tâm quy định tại khoản 2 Điều 11 của Luật TGPL là huyện nằm cách xa Trung tâm và không đạt tiêu chí giao thông theo hướng dẫn thực hiện tiêu chí huyện đạt chuẩn nông thôn mới của cơ quan có thẩm quyền.
Thực hiện chủ trương sáp nhập tỉnh, sáp nhập xã, bỏ cấp huyện nên nhiều tỉnh, thành phố sau khi sáp nhập có địa bàn rất rộng, điều kiện địa lý và giao thông đi lại khác nhau, dân số đông và đa dạng, kinh tế - xã hội phát triển hơn, “vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn” đã có sự thay đổi. Trong khi đó, khoản 2 Điều 11 Luật TGPL năm 2017 quy định Chi nhánh của Trung tâm“được thành lập tại các huyện ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, giao thông không thuận tiện đến Trung tâm TGPL nhà nước và chưa có tổ chức hành nghề luật sư hoặc tổ chức tư vấn pháp luật tham gia TGPL”. Quy định này không còn phù hợp với mô hình chính quyền địa phương hai cấp và điều kiện thực tiễn hiện nay. Do đó, cần sửa đổi quy định về việc thành lập Chi nhánh của Trung tâm để đáp ứng kịp thời, có hiệu quả nhu cầu TGPL của người dân ở cơ sở.
Thứ ba, chế độ, chính sách đãi ngộ đối với người thực hiện TGPL hiện nay chưa tương xứng, nên chưa khuyến khích người thực hiện TGPL gắn bó với công việc. Chế độ chi trả thù lao trong hoạt động TGPL còn thấp hơn nhiều so với mức thu nhập trung bình của luật sư, chưa thu hút sự tham gia đông đảo của luật sư vào hoạt động TGPL. Việc quy định số lượng trang phục riêng theo tiêu chuẩn, niên hạn quy định tại khoản 3 Điều 11 Nghị định số 144/2017/NĐ-CP không còn phù hợp với tình hình thực tế khi thực hiện nhiệm vụ TGPL, trợ giúp viên pháp lý phải mặc trang phục theo quy định, trong khi hoạt động TGPL của trợ giúp viên pháp lý là hoạt động thường xuyên, liên tục, do đó, với số lượng trang phục quy định như hiện tại chưa bảo đảm đầy đủ. Khi thực hiện các vụ việc đại diện ngoài tố tụng cũng đòi hỏi trợ giúp viên pháp lý có đầy đủ kiến thức pháp luật và kỹ năng, kinh nghiệm để có thể giải quyết vụ việc đạt kết quả tốt. Thậm chí, có nhiều vụ việc đại diện ngoài tố tụng phức tạp cần nghiên cứu nhiều tài liệu, gặp gỡ nhiều người có liên quan, mất nhiều thời gian. Tuy nhiên, mức thù lao cho trợ giúp viên pháp lý thực hiện vụ việc này bằng 20% thù lao trả cho luật sư, thấp hơn vụ việc tham gia tố tụng (vụ việc tham gia tố tụng trợ giúp viên pháp lý được hưởng thù lao bằng 40% chi trả cho luật sư).
Thứ tư, về ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, thực hiện TGPL còn hạn chế: Điều 39 Luật TGPL năm 2017 có đề cập đến cơ sở dữ liệu TGPL nhưng chưa quy định cụ thể về vấn đề này. Thực tế, lĩnh vực TGPL chưa có cơ sở dữ liệu đầy đủ về tổ chức và hoạt động TGPL mà mới chỉ có dữ liệu tổ chức thực hiện TGPL, người thực hiện TGPL, tóm tắt về thông tin vụ việc, hồ sơ vụ việc lưu trữ tại Hệ thống quản lý tổ chức và hoạt động TGPL. Để triển khai Hệ thống này, khoản 3 Điều 2 Thông tư số 03/2021/TT-BTP đã quy định về quản lý, cập nhật, khai thác hồ sơ điện tử về vụ việc TGPL, dữ liệu về tổ chức, nhân sự TGPL trên Hệ thống quản lý tổ chức và hoạt động TGPL. Hiện nay, mặc dù cơ sở dữ liệu TGPL đang được nghiên cứu, xây dựng và thực hiện kết nối với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư nhưng cũng gặp một vài khó khăn nhất định, ví dụ như chưa quy định về trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong việc xây dựng, hình thành, quản lý cơ sở dữ liệu TGPL...
Lĩnh vực TGPL cũng chưa có sự kết nối, chia sẻ với các cơ sở dữ liệu, Bộ, ngành, địa phương; chưa có các ứng dụng quản lý, hỗ trợ tổ chức thực hiện TGPL, người thực hiện TGPL, viên chức, người lao động trong hệ thống TGPL, các công việc liên quan tới quản lý công việc trong hệ thống TGPL. Việc áp dụng dịch vụ công trực tuyến về TGPL được thực hiện chưa đồng đều ở các địa phương. Cơ sở vật chất để triển khai các nội dung về ứng dụng công nghệ thông tin ở Trung ương và địa phương còn ở mức độ nhất định. Các vấn đề về chính sách hiện đại hóa TGPL, trách nhiệm của các cơ quan có liên quan, các nội dung về hiện đại hóa, ứng dụng công nghệ thông tin theo tinh thần tại Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 9/11/2022 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa việt nam trong giai đoạn mới cần được quy định ở văn bản của Chính phủ, bảo đảm sự chỉ đạo, điều hành thông suốt trong hoạt động TGPL.
Thứ năm, ngày 27/11/2023, Bộ Tư pháp và Bộ Công an ký kết Chương trình phối hợp số 5789/CTPH-BTP-BCA về trực TGPL trong điều tra hình sự. Trung tâm TGPL nhà nước phân công người trực qua điện thoại 24/24 giờ. Trong ngày trực, người trực phải đảm bảo thông tin liên lạc thông suốt, tiếp nhận điện thoại (kể cả ngày nghỉ, ngày lễ, ban đêm…) từ cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, cơ sở giam giữ, Công an cấp xã để kịp thời liên hệ, hướng dẫn người được TGPL sử dụng dịch vụ TGPL ngay từ giai đoạn đầu của tố tụng hình sự. Tuy nhiên, hiện chưa có quy định hướng dẫn áp dụng về chi trả đối với những hoạt động phát sinh khi trực TGPL.
Ngoài ra, pháp luật về TGPL hiện nay quy định về thụ lý ngay để thực hiện TGPL mà chưa cần xác minh diện người TGPL. Thực tế có trường hợp sau một thời gian thực hiện xác minh, gặp gỡ, tiếp xúc với đối tượng hoặc làm việc với các cơ quan có liên quan thì người thực hiện TGPL mới phát hiện đối tượng không thuộc diện TGPL. Trường hợp này, chưa có quy định rõ về việc người thực hiện TGPL được thanh toán thù lao, bồi dưỡng cho thời gian thực hiện vụ việc đó.
Thứ sáu, từ năm 2016, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về TGPL hàng năm Bộ Tư pháp ban hành chỉ tiêu thực hiện vụ việc tham gia tố tụng cho trợ giúp viên pháp lý. Việc ban hành chỉ tiêu nhằm tiếp tục thực hiện hiệu quả Luật TGPL năm 2017, đẩy mạnh hoạt động tham gia tố tụng, đưa chất lượng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được TGPL ngày càng được nâng cao. Các trợ giúp viên pháp lý có trách nhiệm thực hiện một số lượng vụ việc tham gia tố tụng nhất định căn cứ vào thâm niên giữ chức danh nghề nghiệp. Nhiệm vụ ban hành chỉ tiêu vụ việc tham gia tố tụng trong TGPL chưa được quy định tại văn bản quy phạm pháp luật. Do đó, cần nghiên cứu quy định tại Nghị định để có cơ sở pháp lý vững chắc cho Bộ Tư pháp hàng năm thực hiện nhiệm vụ này.
Thứ bảy, Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030” có yêu cầu bổ sung quy định về giá trị sử dụng thẻ Căn cước công dân gắn chíp điện tử, giá trị sử dụng của các thông tin được tích hợp trong thẻ căn cước công dân khi thực hiện các thủ tục hành chính, giao dịch dân sự, xử lý vi phạm hành chính; bổ sung quy định về giá trị sử dụng của tài khoản định danh điện tử và việc xác thực điện tử trong giải quyết thủ tục hành chính, giao dịch dân sự qua ứng dụng VNeID. Khi tiếp nhận yêu cầu thủ tục hành chính, các cơ quan có thể khai thác các thông tin cá nhân qua Căn cước công dân có gắn chíp hoặc VNEID. Do đó, điểm c khoản 1 Điều 16 Nghị định số 144/20217/NĐ-CP yêu cầu người có nhu cầu làm cộng tác viên TGPL phải nộp sơ yếu lý lịch có xác nhận của Uỷ ban nhân xã, phường nơi cư trú là không cần thiết.
Một số đề xuất, kiến nghị nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế
 Để bảo đảm thực hiện có hiệu quả Luật TGPL trong thời gian tới đồng thời khắc phục những hạn chế, bất cập trong tổ chức và hoạt động TGPL, cần phải hoàn thiện thể chế, sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật về TGPL và các văn bản pháp luật có liên quan, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất. Trước mắt, đề nghị Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 144/2017/NĐ-CP theo hướng:
Thứ nhất, sửa đổi điều kiện có khó khăn về tài chính theo hướng bổ sung người thuộc hộ mới thoát nghèo, người lao động có thu nhập thấp (là người lao động thuộc hộ làm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và diêm nghiệp có thu nhập trung bình), người gặp khó khăn đột xuất (do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn…). Việc sửa đổi điều kiện có khó khăn về tài chính chỉ nhằm bổ sung những người thực sự có khó khăn, không có khả năng chi trả dịch vụ pháp lý (vẫn thuộc các diện quy định tại khoản 7 Điều 7 Luật TGPL), không làm phát sinh diện người được TGPL ngoài phạm vi Luật TGPL.
Thứ hai, về tổ chức thực hiện TGPL, quy định rõ mỗi tỉnh, thành phố có ít nhất 01 Trung tâm và giao cho UBND cấp tỉnh căn cứ vào nhu cầu, điều kiện thực tiễn tại địa phương quyết định số lượng Trung tâm ở địa phương. Đồng thời, quy định tiêu chí, điều kiện thành lập Chi nhánh cho phù hợp với mô hình chính quyền địa phương 02 cấp, sáp nhập tỉnh, sáp nhập xã, bỏ cấp huyện. Giao Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định thành lập Chi nhánh của Trung tâm cho phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương. 
Thứ ba, bổ sung quy định về chính sách, trách nhiệm trong đầu tư hiện đại hóa TGPL. Quy định Nhà nước có chính sách đầu tư công nghệ, ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số trong hoạt động TGPL. Bộ Tư pháp và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm bảo đảm các điều kiện để thúc đẩy hoạt động TGPL ở Trung ương và địa phương chuyên nghiệp, hiện đại, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động TGPL, đáp ứng yêu cầu của Nghị quyết số 27/NQ-TW.
Thứ tư, quy định trách nhiệm của Bộ Tư pháp, Cục TGPL, tổ chức thực hiện TGPL, người thực hiện TGPL trong việc xây dựng, quản lý về cơ sở dữ liệu TGPL và kết nối, chia sẻ với các cơ sở dữ liệu khác của quốc gia, bộ, ngành, địa phương; trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quá trình thực hiện nội dung này.
Thứ năm, Hướng dẫn về thời hạn thanh toán thù lao, bồi dưỡng cho người thực hiện TGPL; bổ sung quy định về thanh toán thù lao, bồi dưỡng và chi phí thực hiện vụ việc TGPL đối với vụ việc thụ lý ngay và hướng dẫn về chi trả bồi dưỡng, thù lao, chi phí phát sinh trong quá trình trực TGPL trong điều tra hình sự trên cơ sở các văn bản, quy định hiện hành.
Thứ sáu, bãi bỏ điểm c khoản 1 Điều 16 Nghị định số 144/2017/NĐ-CP, không yêu cầu có sơ yếu lý lịch cá nhân có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú trong hồ sơ đề nghị làm cộng tác viên trợ giúp pháp lý để bảo đảm phù hợp yêu cầu thực hiện Đề án 06 của Thủ tướng Chính phủ “Phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030”.
                                     Tuyết Minh
Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý

Xem thêm »