Phân quyền, phân cấp ở các lĩnh vực tư pháp: Tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp - Bài 1

30/06/2025
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In Gửi email

Việc phân định thẩm quyền và phân quyền, phân cấp khi thực hiện chính quyền địa phương 2 cấp đang nhận được nhiều sự quan tâm của dư luận. Lĩnh vực tư pháp do Bộ, ngành Tư pháp cũng không nằm ngoài “dòng chảy chung” đó và Bộ, ngành Tư pháp luôn xác định cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong triển khai chủ trương này.

Thứ trưởng Đặng Hoàng Oanh chủ trì một buổi làm việc liên quan đến phân quyền, phân cấp, phân định thẩm quyền. (Ảnh: T.O)

Bài 1: Thực hiện phân quyền, phân cấp 70 nhiệm vụ

Để thể chế hóa đầy đủ quan điểm, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp, Bộ Tư pháp đã rà soát các văn bản liên quan và dự kiến phân quyền, phân cấp 70 nhiệm vụ.

Rà soát 67 văn bản quy phạm pháp luật

Trong quá trình triển khai chủ trương phân định thẩm quyền và phân quyền, phân cấp, Bộ Tư pháp đã rà soát tổng số 67 văn bản quy phạm pháp luật, gồm: 18 luật, 2 pháp lệnh, 30 nghị định, 1 quyết định, 3 thông tư liên tịch, 13 thông tư. Trên cơ sở kết quả rà soát, 181 nhiệm vụ, thẩm quyền trong lĩnh vực tư pháp đang do các cơ quan trung ương thực hiện, Bộ Tư pháp dự kiến phân quyền, phân cấp 70 nhiệm vụ, đạt tỷ lệ 38%.

Cụ thể, bao gồm: 11 thủ tục hành chính (TTHC) đã được Bộ Tư pháp tham mưu Chính phủ phân cấp tại Nghị định số 112/2025/NĐ-CP ngày 29/5/2025 sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định thuộc lĩnh vực bổ trợ tư pháp; 37 nhiệm vụ (gồm 26 TTHC và 11 nhiệm vụ quản lý nhà nước) dự kiến được phân quyền, phân cấp tại dự thảo Nghị định quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp trình Chính phủ (đã ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP); 22 nhiệm vụ dự kiến sẽ phân quyền, phân cấp trong Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi), Luật Phổ biến giáo dục pháp luật (sửa đổi) và tại Thông tư của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.

Còn 111 nhiệm vụ, thẩm quyền thuộc cơ quan Trung ương không thực hiện phân quyền, phân cấp. Lý do là các nhiệm vụ này tập trung xây dựng, hoàn thiện thể chế, trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật; tham mưu, giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước trong các lĩnh vực, xây dựng chính sách, chiến lược phát triển ngành, lĩnh vực; tổ chức thi hành pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ, ngành; chế độ báo cáo, thống kê... Đối với các TTHC do Bộ Tư pháp, Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện, sẽ nghiên cứu để phân cấp cho các đơn vị thuộc Bộ nhằm bảo đảm giải quyết nhanh chóng, thuận tiện cho người dân, tổ chức, doanh nghiệp.

Đề xuất phân quyền, phân cấp 37 thủ tục hành chính

Riêng đối với các TTHC, trước khi thực hiện rà soát, thực hiện phân quyền, phân cấp, Bộ Tư pháp đang trực tiếp giải quyết 64 thủ tục, trong đó qua rà soát có 9 TTHC không cần phải thực hiện việc phân quyền, phân cấp do đây là các TTHC đã thực hiện toàn trình, không phụ thuộc vào địa giới hành chính hoặc các TTHC vừa thực hiện ở Trung ương và ở các cấp địa phương.

Theo đó, 6 TTHC (đăng ký giao dịch bảo đảm) là thủ tục đơn tuyến, đã thực hiện toàn trình, không phụ thuộc vào địa giới hành chính; việc đăng ký, cung cấp thông tin tại các Trung tâm đăng ký (hiện có 3 Trung tâm) có giá trị pháp lý như nhau; phù hợp với thông lệ quốc tế về tổ chức của cơ quan đăng ký biện pháp bảo đảm bằng động sản. Nếu phân cấp việc đăng ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm bằng động sản cho địa phương sẽ dẫn đến việc đăng ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm phụ thuộc vào địa giới hành chính và phát sinh tổ chức, bộ máy tại các địa phương để thực hiện nhiệm vụ được phân cấp. Đối với 3 TTHC trong lĩnh vực bồi thường nhà nước vừa thực hiện ở Trung ương và ở các cấp địa phương (cơ quan quản lý cán bộ, công chức gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân thì đều phải thực hiện các thủ tục này).

Trong số 55 TTHC còn lại cần rà soát để phân quyền, phân cấp, Bộ Tư pháp đề xuất phân quyền, phân cấp 37 TTHC cho Chủ tịch UBND cấp tỉnh thực hiện, đạt tỷ lệ 67%; 18 TTHC đề xuất Bộ Tư pháp tiếp tục thực hiện do liên quan đến nước ngoài hoặc TTHC cần phải do cơ quan Trung ương quản lý thống nhất, số lượng TTHC thực hiện không nhiều.

Cụ thể: 14 TTHC liên quan đến luật sư nước ngoài, công ty luật nước ngoài trước khi vào hoạt động/hành nghề tại Việt Nam, cần có sự phối hợp xác minh của một số cơ quan Trung ương và trên thực tế, số lượng giải quyết các TTHC này không nhiều (Từ năm 2023 đến nay, tổng số yêu cầu liên quan 3 thủ tục này chỉ có 14 hồ sơ - bình quân chỉ khoảng 2 hồ sơ/1 thủ tục/1 năm; thủ tục cấp Giấy phép hành nghề tại Việt Nam của luật sư nước ngoài có 109 hồ sơ - bình quân khoảng 43 hồ sơ/1 năm); 1 TTHC thành lập cơ sở đào tạo nghề luật sư của Liên đoàn Luật sư Việt Nam với tần suất thực hiện rất ít; đồng thời, do yêu cầu về thống nhất quản lý và quá trình thực hiện cần sự phối hợp của các cơ quan trung ương để thẩm tra hồ sơ.

Ngoài ra, có 3 TTHC liên quan đến tổ chức nuôi con nuôi nước ngoài: Thực tiễn cho thấy, các tổ chức con nuôi nước ngoài tại Việt Nam không nhiều (hiện chỉ có khoảng hơn 20 tổ chức), không phải tỉnh, TP nào cũng có các tổ chức con nuôi hoạt động, số lượng giải quyết các TTHC này không nhiều (Trong 05 năm - từ 15/12/2020 đến 31/3/2025 - Bộ Tư pháp chỉ cấp Giấy phép mới cho 07 tổ chức con nuôi nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, 40 lượt hồ sơ gia hạn Giấy phép và 06 lượt hồ sơ sửa đổi Giấy phép hoạt động của tổ chức con nuôi nước ngoài tại Việt Nam) và việc giải quyết tại Bộ Tư pháp là đảm bảo tính tương thích với Công ước LaHay 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực con nuôi quốc tế.

Việc phân quyền, phân cấp, phân định thẩm quyền trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp đã được đề xuất thực hiện bảo đảm các nguyên tắc:

(1) Trung ương tập trung quản lý vĩ mô, xây dựng thể chế, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đồng bộ, thống nhất, giữ vai trò kiến tạo và tăng cường kiểm tra, giám sát; phân cấp, phân quyền đủ mạnh, đủ rõ, hợp lý các nhiệm vụ ở Trung ương đang thực hiện về cho địa phương theo đúng tinh thần “địa phương quyết định, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”.

(2) Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền và phân định rõ giữa thẩm quyền chung của ủy ban nhân dân và thẩm quyền riêng của chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp xã nhằm phát huy vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức các cấp (không để tình trạng đùn đẩy, né tránh và chậm trễ trong việc triển khai các nhiệm vụ, quyền hạn; gửi xin ý kiến tràn lan).

(3) Rà soát, thực hiện phân cấp, phân quyền giữa các ngành, lĩnh vực có liên quan bảo đảm đồng bộ, tổng thể, liên thông, không bỏ sót hoặc chồng lấn, giao thoa nhiệm vụ”.

(4) “Đẩy mạnh phân cấp cho chính quyền địa phương cấp xã theo năng lực và yêu cầu quản lý”… được nêu tại Kết luận số 155-KL/TW ngày 17/5/2025, Kết luận số 137-KL/TW ngày 28/3/2025 của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Kết luận số 121-KL/TW ngày 24/01/2025 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tổng kết Nghị quyết số 18-NQ/TW…

Nhiều ý kiến cho rằng, việc phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý của Bộ Tư pháp như tại các VBQPPL nêu trên là hợp lý, bảo đảm tính khả thi. Trước khi phân quyền, phân cấp, các TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ Tư pháp, Bộ trưởng Bộ Tư pháp hầu hết đều được nộp hồ sơ tại Sở Tư pháp; các Sở Tư pháp tiếp nhận hồ sơ, xem xét đánh giá hồ sơ đủ hay không đủ điều kiện trình, sau đó, chuyển hồ sơ lên Bộ để Bộ, Bộ trưởng ra quyết định giải quyết các TTHC. Như vậy, về bản chất, lâu nay địa phương cũng đã thực hiện một phần quan trọng trong quy trình giải quyết các TTHC này; việc phân quyền, phân cấp không phải là việc hoàn toàn mới cho địa phương mà là bảo đảm địa phương thực hiện xuyên suốt các TTHC.

Khi thực hiện việc phân quyền, phân cấp từ Bộ Tư pháp xuống UBND cấp tỉnh, Chủ tịch UBND cấp tỉnh dẫn đến việc thay đổi về trình tự, thủ tục và thẩm quyền đang được quy định trong VBQPPL chuyên ngành. Do vậy, để bảo đảm việc thực hiện TTHC thông suốt, không bị ách tắc, các nghị định đã quy định cụ thể trình tự, thủ tục thực hiện, thành phần hồ sơ, thời hạn giải quyết các TTHC đối với từng loại thủ tục. Các quy định này bảo đảm tuân thủ yêu cầu về cải cách hành chính, cắt giảm thời gian, thành phần và chi phí tuân thủ TTHC; đối với các TTHC yêu cầu có Phiếu lý lịch tư pháp thì không yêu cầu người dân nộp mà quy định theo hướng cơ quan giải quyết TTHC đề nghị cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu về lý lịch tư pháp cung cấp thông tin nhằm thực thi phương án cắt giảm, đơn giản hóa quy định, TTHC liên quan đến Phiếu lý lịch tư pháp theo Quyết định số 498/QĐ-TTg ngày 11/6/2024 của Thủ tướng Chính phủ.

Nguồn: Hà Anh - Thục Quyên
Báo điện tử Pháp luật Việt Nam

Xem thêm »