Trợ giúp pháp lý cho người nước ngoài theo điều ước quốc tế: Hoàn thiện thể chế, bảo đảm quyền con người trong bối cảnh hội nhập

17/12/2025
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In Gửi email

Nghị quyết 59-NQ/TW ngày 24/1/2025 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới được xem là một trong bốn trụ cột định hướng chiến lược cho đất nước trong kỷ nguyên mới. Trong mục tiêu tổng quát Nghị quyết đã khẳng định: “Nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính đồng bộ, toàn diện sâu rộng của hội nhập quốc tế, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, góp phần thiết thực xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vai trò, vị thế và uy tín của đất nước, phấn đấu đến giữa thế kỷ 21 nước ta trở thành nước phát triển thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Những định hướng này đặt ra yêu cầu tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh đó, việc bảo đảm quyền tiếp cận công lý cho mọi cá nhân, đặc biệt đối với người nước ngoài thuộc phạm vi điều chỉnh của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên không chỉ là yêu cầu của hệ thống tư pháp, mà còn là nghĩa vụ quốc tế của Việt Nam với tư cách thành viên của nhiều điều ước quốc tế quan trọng. Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý (TGPL) đang được xây dựng đã đề xuất mở rộng đối tượng được TGPL là người nước ngoài theo điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Quy định này được kỳ vọng sẽ góp phần từng bước hoàn thiện khung pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người yếu thế, thể hiện rõ định hướng hội nhập, tôn trọng và bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp.

1. Bối cảnh pháp lý và yêu cầu đặt ra từ thực tiễn

Luật Trợ giúp pháp lý hiện hành đã thiết lập cơ chế cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người nghèo và nhóm các đối tượng yếu thế trong xã hội (như người cao tuổi, người bị nhiễm chất độc màu da cam, người nhiễm HIV,… có khó khăn về tài chính) xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo, công bằng và trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền tiếp cận công lý.

Trên thực tế, việc trợ giúp pháp lý cho người nước ngoài không phải là vấn đề hoàn toàn mới trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Đến nay, Việt Nam đã ký kết 17 hiệp định tương trợ tư pháp với các quốc gia như Trung Quốc, Pháp, Ucraina, Mông Cổ, An-giê-ri, Campuchia, Ba Lan, Bun-ga-ri, Ca-dắc-xtan, Cuba, Hungari, Liên bang Nga, Tiệp Khắc (cũ), Triều Tiên, Belarus, Đài Loan và Lào. Các hiệp định này đều ghi nhận nguyên tắc “có đi, có lại”, theo đó công dân của các quốc gia ký kết khi cư trú hoặc tham gia quan hệ pháp luật tại Việt Nam, nếu thuộc diện được hưởng trợ giúp pháp lý theo pháp luật Việt Nam, sẽ được hưởng TGPL với phạm vi và điều kiện tương tự công dân Việt Nam.

Như vậy, trên thực tế, hoạt động TGPL cho người nước ngoài đã được triển khai trong thời gian dài, nhưng chủ yếu dựa trên cơ sở các hiệp định tương trợ tư pháp, chưa được luật hóa một cách rõ ràng, thống nhất trong Luật Trợ giúp pháp lý. Điều này dẫn đến việc áp dụng pháp luật trong một số trường hợp còn phụ thuộc vào cách hiểu và vận dụng của từng cơ quan, địa phương, tiềm ẩn nguy cơ thiếu thống nhất.

Ngoài ra, trong quá trình triển khai hoạt động trợ giúp pháp lý có một số ý kiến đặt ra là các đối tương trợ giúp pháp lý quy định tại Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý được áp dung cho công dân Việt Nam hay các chủ thể khác như người nước ngoài, người không quốc tịch. Đây là vấn đề được thảo luận nhiều trong quá trình xây dựng dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý.

Trong bối cảnh đó, việc dự thảo Luật TGPL bổ sung quy định về đối tượng là người nước ngoài theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên chính là bước đi cần thiết để “luật hóa” thực tiễn đã được vận hành, đồng thời thể hiện nghĩa vụ thực thi các cam kết quốc tế của Việt Nam, đồng thời, qua đó xác định rõ người nước ngoài được trợ giúp pháp lý trong những trường hợp nào.

2. Phạm vi áp dụng và cách tiếp cận của dự thảo Luật

Theo khoản 5 Điều 3 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008, người nước ngoài cư trú ở Việt Nam là công dân nước ngoài và người không quốc tịch thường trú hoặc tạm trú ở Việt Nam. Khoản 1 Điều 3 Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam cũng quy định “người nước ngoài” bao gồm người mang giấy tờ xác định quốc tịch nước ngoài và người không quốc tịch. Mặt khác, ngày 20/3/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 402/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch triển khai Thỏa thuận toàn cầu về di cư hợp pháp, an toàn và trật tự của Liên hợp quốc. Theo đó, trong giai đoạn 2020 - 2025, Bộ Tư pháp được giao nhiều nhiệm vụ liên quan đến giải quyết giấy tờ chứng minh về nhân thân cho người di cư, người không có giấy tờ chứng minh về nhân thân, người không quốc tịch, trong đó có nhiệm vụ “Đẩy mạnh nghiên cứu và gia nhập Công ước năm 1954 về vị thế người không quốc tịch, Công ước năm 1961 về giảm thiểu tình trạng không quốc tịch”. Trên các cơ sở nêu trên, dự thảo Luật lựa chọn cách tiếp cận theo hướng khái niệm “người nước ngoài” được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm cả công dân nước ngoài và người không quốc tịch đang cư trú hợp pháp tại Việt Nam, nhằm bảo đảm đồng bộ, thống nhất với các quy định pháp luật hiện hành, đồng thời để chủ động dự liệu khả năng Việt Nam gia nhập các Công ước về vị thế của người không quốc tịch nêu trên.

Bên cạnh đó, giới hạn phạm vi áp dụng của chính sách TGPL đối với người nước ngoài được thiết kế gắn với tiêu chí “theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên”, qua đó thể hiện rõ nguyên tắc “có đi, có lại”. Theo cách tiếp cận này, không phải mọi người nước ngoài đều mặc nhiên thuộc diện được TGPL, mà chỉ áp dụng đối với các trường hợp mà điều ước quốc tế có liên quan quy định hoặc cho phép. Cách thiết kế này giúp bảo đảm nghĩa vụ tuân thủ cam kết quốc tế, đồng thời tạo khuôn khổ pháp lý rõ ràng cho các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình tổ chức thực hiện. Đồng thời, dự thảo cũng bổ sung quy định giao Chính phủ quy định chi tiết nội dung này nhằm hướng dẫn những nội dung cụ thể (cách thức xác định đối tượng, cơ quan tiếp nhận, người phiên dịch,…) trong việc triển khai thực hiện trợ giúp pháp lý cho nhóm đối tượng này.

3. Một số vấn đề đặt ra trong tổ chức thực hiện

Việc mở rộng đối tượng được TGPL cho người nước ngoài được dự báo sẽ tác động trực tiếp đến tổ chức và hoạt động của hệ thống TGPL. Trước hết, số lượng vụ việc có yếu tố nước ngoài có thể gia tăng, đòi hỏi sự chuẩn bị đồng bộ về nhân lực, năng lực chuyên môn và cơ chế phối hợp.

Đội ngũ trợ giúp viên pháp lý sẽ cần được bồi dưỡng sâu hơn về tư pháp quốc tế, xung đột pháp luật, điều ước quốc tế, cũng như kỹ năng làm việc trong môi trường đa ngôn ngữ, đa văn hóa. Đồng thời, cơ chế phối hợp giữa Trung tâm TGPL với các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan quản lý xuất nhập cảnh và các tổ chức có liên quan cũng cần được đẩy mạnh.

Bên cạnh đó, việc ban hành hướng dẫn chi tiết về trình tự, thủ tục xác định người nước ngoài thuộc diện được TGPL theo điều ước quốc tế là cần thiết nhằm bảo đảm tính thống nhất trong áp dụng pháp luật giữa các địa phương, hạn chế tối đa tình trạng tùy nghi trong vận dụng.

Kết luận

Việc bổ sung đối tượng “người nước ngoài theo điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên” trong dự thảo Luật Trợ giúp pháp lý không chỉ là sự điều chỉnh về kỹ thuật lập pháp, mà còn là bước tiến quan trọng trong hoàn thiện thể chế về tư pháp và quyền con người. Quy định này góp phần hệ thống hóa, luật hóa thực tiễn đã được áp dụng trên cơ sở các hiệp định tương trợ tư pháp, qua đó nâng cao tính minh bạch, thống nhất và khả năng dự đoán của pháp luật. Về khía cạnh đối ngoại, đây là thông điệp rõ ràng về cam kết của Việt Nam trong việc thực hiện nghiêm túc các điều ước quốc tế, đồng thời góp phần củng cố niềm tin của cộng đồng quốc tế đối với hệ thống tư pháp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng.
Nguyễn Phan Thuỳ Linh, Phòng Quản lý trợ giúp pháp lý,
Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý

Xem thêm »